Trong 2 tháng giao dịch đầu năm 2022, cổ phiếu ngân hàng chưa bứt phá, nhưng đóng vai trò lực đỡ cho thị trường. Tuy nhiên, trong nhóm có sự phân hoá, khi các nhà băng có vốn hoá lớn tăng mạnh, còn nhóm có vốn hoá nhỏ lại suy giảm.
Một số ngân hàng có mức tăng trưởng cổ phiếu tốt như BID (+30,5%), MBB (+16,8%), VCB (+15,9%)… trong khi đó, nhóm có vốn hoá nhỏ, từng có thời gian tăng nóng năm 2021 lại giảm như BVB (-10,3%), SSB (-7,9%), VBB (-5,3%), SGB (-5%),…
Ngoài ra, NHNN đã chấp nhận tăng room tín dụng cho các NHTM để hỗ trợ sản xuất kinh doanh tăng trở lại. Đây sẽ là yếu tố quan trọng hỗ trợ cho nhóm ngân hàng năm 2022. Sau 2 năm chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh, nợ xấu là không tránh khỏi, cả nợ xấu nội và ngoại bảng đều tăng. Tuy nhiên, về cơ bản nợ xấu chủ yếu nằm ở một số ngành nghề nhạy cảm, điều này không đáng lo ngại như những năm trước và bản thân nội lực của ngành ngân hàng đã lớn hơn nên áp lực là có nhưng không quá lớn.
Các ngân hàng đang thực hiện tăng vốn, giúp giảm rủi ro về nợ xấu, tăng thanh khoản hệ thống. Tuy nhiên, quá trình tăng vốn của các ngân hàng sẽ được hậu thuẫn từ đề xuất tăng room ngoại cho các NHTM từ 30% lên 35%. Ngoài ra, trong năm 2022, sẽ có 2 ngân hàng trong số các NHTM được tăng room lên 49% theo EVFTA.
Ngành ngân hàng chiếm trên 30% vốn hoá của VN-Index. Đây cũng là nhóm ngành nhạy cảm, chịu tác động nhiều chiều từ dịch bệnh và tăng trưởng kinh tế. Trải qua 2 năm dịch bệnh COVID-19, GDP Việt Nam tăng trưởng chậm lại (năm 2020 là 2,91%; năm 2021 là 2,58%), đều là mức tăng trưởng thấp nhất trong vòng 20 năm trở lại đây. Trong khi đó, tăng trưởng tín dụng đạt khoảng 13% vẫn là điểm nổi bật và nâng đỡ nền kinh tế, các chỉ số kinh tế vĩ mô. Kết quả kinh doanh năm 2021 cho thấy ngành ngân hàng tiếp tục là điểm sáng trong bức tranh nền kinh tế, khi nhiều đơn vị có lợi nhuận tăng trưởng mạnh so với năm 2020, đi ngược với nhiều lo ngại trước đó về đà suy giảm mạnh do dịch bệnh.
Đáng chú ý, năm nay ngành ngân hàng ghi nhận thêm một doanh nghiệp lợi nhuận tỷ đô là Techcombank (23.238 tỷ đồng), cùng với đó Vietcombank đạt con số lợi nhuận kỷ lục 27.376 tỷ đồng. Đây là 2 doanh nghiệp có lợi nhuận cao thứ 3 và thứ 4 trong câu lạc bộ các doanh nghiệp tư nhân lợi nhuận tỷ USD, đứng sau Vinhomes và Hoà Phát. Năm 2021 có thể coi là một năm thành công lớn với nhóm ngân hàng có quy mô vốn hoá nhỏ, không chỉ về thị giá cổ phiếu mà còn về mức tăng trưởng lợi nhuận trước thuế, một số ngân hàng có lợi nhuận gấp 2-6 lần so với năm 2020. Ví dụ như: KLB (+539%), BAB (+340%), VAB (+107%), dẫn đầu mức tăng trưởng lợi nhuận nhóm này; nhóm ngân hàng có vốn hoá trung bình như MSB, SHB, SSB cũng ghi nhận mức tăng trưởng lợi nhuận cao, từ 90-100%.
Trong khi đó, nhóm ngân hàng có mức vốn hoá lớn như VCB, CTG, BID, VPB, TCB ghi nhận mức tăng trưởng lợi nhuận thấp hơn, dưới 50%, đặc biệt CTG chỉ tăng 2% hay VPB chỉ tăng 12% (là mức tăng rất thấp so với các năm về trước). Tuy nhiên, cần nhìn nhận một cách khách quan rằng, ở một số ngân hàng tốc độ tăng trưởng lợi nhuận thấp hơn do tăng mạnh trích lập dự phòng rủi ro tín dụng và ngược lại ở nhóm ngân hàng quy mô vốn hoá nhỏ, tăng trưởng lợi nhuận cao phần lớn do giảm trích lập dự phòng hoặc trích lập thấp.
Một số ngân hàng nhỏ, có mức tăng trưởng lợi nhuận cao thì tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng lại giảm hoặc tăng thấp so với năm trước như VAB (-38%), PGB (-38%), OCB (-21%), BAB (-0,1%) (trừ KLB, tăng trưởng lợi nhuận cao nhờ ghi nhận khoản hoàn nhập do xử lý nợ xấu). Nhiều ngân hàng có quy mô vốn lớn như VCB, BID, CTG, MBB, VPB dù mức tăng trưởng trích lập dự phòng tăng chỉ từ 26-50% nhưng trị số tuyệt đối tăng lại rất lớn. Một số ngân hàng trích lập dự phòng đã vượt cả lợi nhuận như BID, CTG, VPB.
TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho hay hiện các tổ chức tín dụng chưa phải trích dự phòng rủi ro đầy đủ đối với các khoản nợ cơ cấu lại theo Thông tư 01, 03, 14. Đồng thời còn những khoản dự thu của dư nợ nhóm 1 đã hạch toán vào thu nhập nên nhất thời cũng góp phần làm cho lợi nhuận ngân hàng ghi nhận dương.
Theo ước tính của NHNN, nếu tính đầy đủ cả con số nợ có thể cũng trở thành nợ xấu nếu không thực hiện giãn, hoãn nợ để tháo gỡ khó khăn cho khách hàng ảnh hưởng bởi COVID-19 (theo các thông tư 01, 03, 14) thì tỷ lệ nợ xấu vào thời điểm cuối năm 2021 thậm chí có thể lên đến trên 7,3%. Trong khi đó, ghi nhận tỷ lệ nợ xấu nội bảng tại hệ thống ngân hàng lại không tăng đáng kể, thậm chí còn giảm ở một số nhà băng. Một số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao gồm: VPB (4,4%), VBB (3,6%), NCB (3%), PGB (2,2%), ABB (2%), còn lại đều dưới 2%. Nhóm ngân hàng quốc doanh có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất, dao động từ 0,6-1,3%.
Việc các ngân hàng quy mô lớn, năng lực tài chính mạnh năm 2021 và 2020 tăng mạnh trích lập dự phòng có lý do chủ yếu xuất phát từ lo ngại nợ xấu tăng đột biến trước tác động tiêu cực của dịch bệnh. Về cơ bản, việc tăng mạnh trích lập dự phòng có thể ảnh hưởng tới lợi nhuận ngân hàng trong ngắn hạn nhưng lại được các chuyên gia đánh giá cao trong trung và dài hạn khi các nhà băng này sẵn sàng bộ đệm chống đỡ rủi ro và sẽ bứt phá khi nền kinh tế khôi phục trở lại.
Tổng Hợp