Tiến trình của Việt Nam đối với một nền kinh tế tự do hơn, thân thiện hơn với thị trường đã và đang bắt đầu nhưng gặp không ít trắc trở vì những bất cập trong cách điều hành.
Việt Nam đã vượt qua cuộc khủng hoảng COVID-19 tốt hơn hầu hết các quốc gia. Bất chấp sự lây lan của virus và những xáo trộn trên thị trường toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng khoảng 3% vào năm 2020, trong khi thặng dư thương mại đạt 19 tỷ USD.
Dòng vốn đầu tư vẫn mạnh mẽ, góp phần đưa đất nước lên vị trí tốt cho sự phục hồi sau đại dịch. Vậy làm thế nào mà Việt Nam lại có kết quả tốt như vậy?
Thủ tục rườm rà ngăn cản quá trình thoái vốn
Câu trả lời ngắn gọn là nền kinh tế đã trải qua những thay đổi lớn về cơ cấu trong những thập kỷ gần đây, lấy đầu tư tư nhân và thương mại làm động cơ tăng trưởng. Sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2007, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng đáng kể với dòng vốn ròng đạt 25,6 tỷ USD vào năm 2019.
So với các khoản đầu tư như trái phiếu, vốn có thể được bán nhanh trong thời gian bất ổn. Do đó, FDI là nguồn vốn ổn định hơn, có năng suất cao hơn và dài hạn.
Tuy nhiên, thành công của Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư và thương mại nước ngoài chỉ là một phần, trọng tâm là những thay đổi đáng kể trong mối quan hệ giữa nhà nước và nền kinh tế. Trong nhiều năm, nhà nước đã cố gắng rút bớt quyền sở hữu trực tiếp trong các lĩnh vực then chốt và nỗ lực tư nhân hóa. Đây là yếu tố quan trọng trong mô hình phát triển thân thiện với thị trường của Việt Nam.
Tuy nhiên, hoạt động thoái vốn của nhà nước khỏi các ngành công nghiệp chủ chốt là một trường hợp tiến hai bước và lùi một bước. Vì các kế hoạch bị bỏ lỡ, thời gian biểu bị sửa đổi ngay cả trước COVID-19.
So với Indonesia, nơi nhiều tài sản thuộc sở hữu nhà nước bị bán tháo để huy động vốn trong thời kỳ khủng hoảng tài chính châu Á, Việt Nam đã tiến hành một cách bài bản và dần dần. Chính phủ Việt Nam dùng thuật ngữ “cổ phần hóa” thay vì “tư nhân hóa”. Vì trước tiên, chính phủ chuyển đổi các công ty nhà nước thành công ty cổ phần mà nhà nước vẫn là cổ đông đa số hoặc duy nhất.
Sau đó là quá trình bán dần một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán TP.HCM hoặc Hà Nội, hoặc trên thị trường công ty đại chúng chưa niêm yết, một sàn giao dịch cho các công ty chưa niêm yết hoặc IPO thất bại.
Nhà nước thường dành cổ phần thiểu số cho một số nhà đầu tư chiến lược được lựa chọn thủ công. Điều này đặt ra câu hỏi, liệu những biện pháp này có thực sự tạo nên cải cách thị trường hay không.
Trước bất kỳ đợt chào bán hoặc niêm yết công khai nào, các quan chức đều có trách nhiệm ước tính mức định giá thị trường và trình phê duyệt kế hoạch cổ phần hóa chính thức.
Đặc biệt, năm 2017 được coi là một bước ngoặt đối với nỗ lực thoái vốn của nhà nước khi có đến 375 công ty được hoàn thiện để tư nhân hóa vào năm 2020. Đây cũng là thời điểm tập đoàn đồ uống khổng lồ ThaiBev mua 54% cổ phần tại Sabeco với giá 4,8 tỷ USD. Nó được hy vọng sẽ mở đầu cho một làn sóng các công ty nhà nước đạt được thành công trên thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, điều này vẫn chưa thể trở thành hiện thực. Theo một báo cáo, từ năm 2016 đến tháng 11/2020 có đến 178 doanh nghiệp nhà nước được phê duyệt đề án cổ phần hóa với tổng giá trị tài sản là 443.500 tỷ đồng (19,1 tỷ USD). Tuy nhiên, khi năm 2020 kết thúc, chỉ có 37 doanh nghiệp trong số này thực hiện được kế hoạch của mình.
Một phần lý do của điều này là các yêu cầu thủ tục rườm rà, mà cụ thể là còn tình trạng xung đột lợi ích giữa nhà nước và tư nhân trong một số lĩnh vực chiến lược. Một lý do khác là các công ty nhà nước hoạt động yếu kém và không có sức hấp dẫn trên thị trường.
Quá trình thoái vốn nhà nước diễn ra khác nhau ở từng lĩnh vực
Năng lượng là một lĩnh vực mà nhà nước chưa có kế hoạch thoái vốn. Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển rất nhanh nên để đảm bảo cung cấp điện theo kịp nhu cầu tăng cao, lĩnh vực này đã mở cửa cho đầu tư nước ngoài.
Năm ngoái, một nhà máy điện khí tự nhiên hóa lỏng ở Bạc Liêu đã thu hút 4 tỷ USD từ các nhà đầu tư Singapore. Và đây chỉ là một trong nhiều dự án điện có vốn đầu tư nước ngoài trị giá hàng tỷ USD trong những năm gần đây. Tuy nhiên, sự quan tâm của thị trường đối với các công ty điện lực nhà nước của Việt Nam đã bị giảm sút nhiều.
Ngoài việc sở hữu và vận hành các nhà máy điện của riêng mình, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) còn kiểm soát 3 công ty phát điện, trong đó có một công ty có tên là GENCO3, chiếm 12,75% tổng công suất lắp đặt của Việt Nam vào năm 2018.
GENCO3 là công ty phát điện đầu tiên của EVN được chuyển đổi sang công ty cổ phần và niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM. Đáng buồn, đợt IPO năm 2018 của GENCO3 là một thất bại, chỉ huy động được khoảng 8 triệu USD từ đợt chào bán. Trong khi đó, con số dự kiến là 290 triệu USD.
Công ty khai thác mỏ quốc doanh Vinacomin cũng không khả quan hơn. Vinacomin đã cố gắng chuyển giao một số công ty con của mình cho các nhà đầu tư tư nhân. Cụ thể, một công ty con của nó, Vinacomin Power, đã chào bán 236,4 triệu cổ phiếu trong đợt IPO năm 2016.
Tuy nhiên, chỉ có 1,2 triệu cổ phiếu đã được bán. Có thể do mức định giá được chính phủ phê duyệt quá cao so với khả năng sinh lời của công ty, hoặc sự phức tạp của thị trường năng lượng Việt Nam có thể khiến các nhà đầu tư khó chịu.
Không chỉ vậy, ngay cả các công ty có nguồn tài chính ổn định hơn cũng vấp ngã trong việc thực hiện nhiệm vụ cổ phần hóa của nhà nước. MobiFone, một trong những nhà khai thác điện thoại di động lớn nhất tại Việt Nam, là một doanh nghiệp hoạt động tốt, đặt lợi nhuận trước thuế bằng 18,6% doanh thu trong năm 2019.
Hơn nữa, MobiFone có ít nợ và tỷ lệ tài sản trên vốn chủ sở hữu tốt. Nếu nộp hồ sơ IPO, đây sẽ là một khoản đầu tư hấp dẫn. Tuy nhiên, kế hoạch cổ phần hóa của công ty đã bị hoãn lại vào năm 2018 sau những cáo buộc MobiFone cố tình chi quá cao để mua lại dịch vụ truyền hình trả tiền. Vụ bê bối này đã dẫn đến án tù nhiều năm cho một số người liên quan.
Có vẻ như nỗ lực cổ phần hóa của Việt Nam cho đến nay đã bị cản trở bởi một loạt các đợt IPO thất bại, định giá phi thực tế và các rủi ro nội bộ khác. Ngược lại, mô hình cổ phần hóa của các lĩnh vực chiến lược như viễn thông và năng lượng lại có những mặt tích cực hơn.
Nếu so sánh, quá trình cổ phần hóa của Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) diễn ra suôn sẻ hơn nhiều, với việc Nhà nước giảm tỷ lệ sở hữu xuống còn khoảng 53% trong năm 2017.
Là một nhà sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may, Vinatex cần phải cạnh tranh với các công ty khác trên toàn cầu và trong nước. Nó không kiểm soát việc cung cấp hàng hóa công chiến lược, như EVN và các công ty con của nó hoặc MobiFone. Do đó, Vinatex phải chịu một loại tính toán kinh tế và chính trị khác khi nói đến thoái vốn nhà nước.
Điều này giống với cách Fujita Mai, thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản, đã lưu ý trong một báo cáo về cổ phần hóa của Vinatex: “Mức độ áp lực từ bên ngoài đối với cải cách và tự do hóa đối với doanh nghiệp nhà nước, cũng như cạnh tranh do mở cửa ngày càng tăng, có thể sẽ khác nhau đáng kể giữa các lĩnh vực”.
Các doanh nghiệp nhà nước có quyền lực độc quyền trong các lĩnh vực chiến lược có thể chịu một số áp lực phải tư nhân hóa. Cụ thể, áp lực đối với lĩnh vực năng lượng là khi nhà nước không muốn gánh vác tất cả gánh nặng tài chính của việc xây dựng thêm công suất phát điện.
Mặt khác, các doanh nghiệp này không phải chịu áp lực cải cách như một doanh nghiệp nhà nước trong một thị trường cạnh tranh hơn, như sản xuất hoặc bán lẻ dệt may.
Cụ thể, nếu không cạnh tranh được với các nhà xuất khẩu hàng may mặc của Trung Quốc, Vinatex sẽ ngừng kinh doanh. Nhưng điều tương tự sẽ không xảy ra đối với các công ty năng lượng hoặc viễn thông thuộc sở hữu nhà nước được hưởng thị phần đặc quyền và ít hoặc không có cạnh tranh.
Vai trò của nhà nước đang bị thu hẹp trong nền kinh tế Việt Nam
Nhìn vào các lĩnh vực chiến lược lớn, quá trình cổ phần hóa của Việt Nam dường như được đánh dấu bằng những khởi đầu sai lầm hơn là về đích. Các công ty lớn đã có những đợt IPO thất bại hoặc kế hoạch của họ bị xóa sổ do bất hòa nội bộ. Nhưng nhìn vào danh mục cho vay của Vietinbank, một trong những ngân hàng thương mại lớn nhất cả nước, cho thấy vai trò của nhà nước đang bị thu hẹp trong nền kinh tế Việt Nam.
Trong năm 2009, 34% các khoản cho vay của Vietinbank được thực hiện cho các công ty do Nhà nước sở hữu hoàn toàn hoặc phần lớn. Đến năm 2019, con số này đã giảm xuống còn 13%, với các doanh nghiệp tư nhân và cá nhân nhận được 82% tổng số khoản vay. (Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài chiếm số dư, chỉ ở mức 5%.) Trên thực tế, các khoản vay cho các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình đã tăng hơn gấp đôi từ năm 2015 đến năm 2019.
Ngay cả khi tốc độ cổ phần hóa không đạt như kế hoạch, việc phân bổ các khoản vay của ngân hàng thương mại cho thấy, nhà nước đang thực sự rút lui khỏi nền kinh tế và bị các doanh nghiệp tư nhân và người tiêu dùng Việt Nam thay thế.
Đây là thời điểm mà Sabeco tái nhập vào thị trường. Trong năm 2019, ThaiBev đã đầu tư thêm 3,85 tỷ USD vào Vietnam Beverage, công ty con kiểm soát 54% cổ phần của tập đoàn Thái Lan tại Sabeco.
Điều thú vị là Sabeco hầu như không kiếm được tiền từ xuất khẩu, với 99% doanh thu năm 2019 là từ bán hàng nội địa. Nhiều người thường gắn FDI với sản xuất và xuất khẩu hướng ra thị trường nước ngoài nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Sabeco nhấn mạnh vai trò quan trọng của các công ty địa phương và tiêu dùng nội địa, vì ThaiBev đã chuyển hàng tỷ USD vào cổ phần để tận dụng thị trường nội địa đang phát triển.
Con đường hướng tới một nền kinh tế tự do hơn, thân thiện hơn với thị trường của Việt Nam đã không tiến triển theo đường thẳng. Nó đã tiến về phía trước trong những trận đấu và bùng nổ, với những kế hoạch lớn chỉ được thực hiện một phần. Nhưng điểm mấu chốt là cơ cấu nền kinh tế đang dần chuyển dịch khỏi sở hữu nhà nước, đặc biệt là trong các lĩnh vực thực sự cạnh tranh như dệt may và bán lẻ.
Đến khi nhà nước có thể từ bỏ quyền nắm giữ của mình đối với các lĩnh vực như năng lượng và viễn thông thì đó là dấu hiệu cho thấy Việt Nam mở cửa kinh doanh.
Đầu tư nước ngoài và xuất khẩu ổn định, dài hạn đang thúc đẩy thặng dư tài khoản vãng lai lớn và tạo ra việc làm. Cho đến nay, chúng là một phần quan trọng trong thành công của Việt Nam, mang lại cho Việt Nam một số cơ hội kinh tế khi đối phó với đại dịch và giúp đất nước phục hồi nhanh hơn
Cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần. Quá trình này được thực hiện với mục đích tránh gây ra mâu thuẫn với bộ phận cán bộ và nhân dân lo ngại về sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.