Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 13 sửa đổi, bổ sung một số quy định về thuế giá trị gia tăng, trong đó có hoạt động chuyển nhượng bất động sản.
Theo đó, Thông tư 13 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 219/2013/TT-BTC như sau: Sửa đổi, bổ sung khoản 10 Điều 7: “Đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản, giá tính thuế giá trị gia tăng thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị định 49/2022/NĐ-CP ngày 29/7/2022 của Chính phủ”. Thông tư này có hiệu lực từ ngày 14/4/2023.
Theo đó, Thông tư số 13 quy định chi tiết về giá đất được trừ để tính thuế GTGT. Như vậy, đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản, giá tính thuế GTGT là giá chuyển nhượng bất động sản trừ (-) giá đất được trừ để tính thuế GTGT.
Cụ thể, đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản, giá tính thuế giá trị gia tăng là giá chuyển nhượng bất động sản trừ giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng.
Trường hợp được Nhà nước giao đất để đầu tư cơ sở hạ tầng xây dựng nhà để bán, giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng bao gồm tiền sử dụng đất phải nộp ngân sách nhà nước theo quy định pháp luật về thu tiền sử dụng đất và tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng (nếu có).
Trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá đất trúng đấu giá.
Trường hợp thuê đất để xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà để bán, giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là tiền thuê đất phải nộp ngân sách nhà nước theo quy định pháp luật về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước và tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng (nếu có).
Tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng là số tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng theo phương án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, được trừ vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp theo quy định pháp luật về thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.
Đối với trường hợp cơ sở kinh doanh nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá đất tại thời điểm nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không bao gồm giá trị cơ sở hạ tầng. Cơ sở kinh doanh được kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào của cơ sở hạ tầng (nếu có). Trường hợp không xác định được giá đất tại thời điểm nhận chuyển nhượng thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định tại thời điểm ký hợp đồng nhận chuyển nhượng.
Trong trường hợp cơ sở kinh doanh nhận chuyển nhượng bất động sản của các tổ chức, cá nhân đã xác định giá đất bao gồm cả giá trị cơ sở hạ tầng theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 4 Nghị định 209/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 3 Nghị định 12/2015/NĐ-CP) thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá đất tại thời điểm nhận chuyển nhượng không bao gồm cơ sở hạ tầng.
Với trường hợp không tách được giá trị cơ sở hạ tầng tại thời điểm nhận chuyển nhượng thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định tại thời điểm ký hợp đồng nhận chuyển nhượng.
Trường hợp cơ sở kinh doanh nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá ghi trong hợp đồng góp vốn. Trường hợp giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thấp hơn giá đất nhận góp vốn thì chỉ được trừ giá đất theo giá chuyển nhượng.
Trường hợp cơ sở kinh doanh bất động sản thực hiện theo hình thức xây dựng chuyển giao (BT) thanh toán bằng giá trị quyền sử dụng đất thì giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng là giá tại thời điểm ký hợp đồng BT theo quy định của pháp luật; nếu tại thời điểm ký hợp đồng BT chưa xác định được giá thì giá đất được trừ là giá đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định để thanh toán công trình.
Trường hợp xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà để bán, chuyển nhượng hoặc cho thuê, giá tính thuế giá trị gia tăng là số tiền thu được theo tiến độ thực hiện dự án hoặc tiến độ thu tiền ghi trong hợp đồng trừ giá đất được trừ tương ứng với tỷ lệ % số tiền thu được trên tổng giá trị hợp đồng.
Hàng loạt những vướng mắc của doanh nghiệp, cá nhân đã nảy sinh trong thực tế hoạt động quyết toán thuế. Đơn cử như trường hợp của Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Bắc Đuống cung cấp dịch vụ tưới, tiêu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Nhiều loại sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp này được cấp hỗ trợ thủy lợi phí. Khi nhận khoản hỗ trợ này, đơn vị không phải kê khai, tính nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT).
Doanh nghiệp này đã đặt câu hỏi với Bộ Tài chính: “Vậy số thuế GTGT đầu vào này công ty có phải kê khai và được khấu trừ thuế không? Công ty có được hoàn thuế khi mua sắm mới tài sản hoặc cải tạo nâng cấp tài sản không? Hay hạch toán vào chi phí trực tiếp để làm cơ sở tính thuế thu nhập doanh nghiệp?”.
Một trường hợp khác, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ môi giới bất động sản tại TP Hồ Chí Minh cũng chia sẻ, trong năm 2022, doanh nghiệp này có ký kết hợp đồng môi giới với các khách hàng là cá nhân có quyền sử dụng đất tại Đồng Xoài (Bình Dương). Đồng thời, để tiện giao dịch pháp lý, doanh nghiệp ký kết Hợp đồng ủy quyền toàn phần về thửa đất đó.
“Đến khi bán được thửa đất, công ty chúng tôi xuất 1 hóa đơn dịch vụ môi giới và 1 hóa đơn thù lao ủy quyền. Đến thời điểm nhận sổ đất, Chi Cục thuế tại Đồng Xoài yêu cầu công ty chúng tôi nộp thuế GTGT vãng lai là 1% của 10% thuế GTGT phí môi giới và phí thù lao ủy quyền liên quan đến các thửa đất.
Vậy nay xin Bộ Tài chính xác nhận cho rõ về hoạt động nhận môi giới và nhận ủy quyền bất động sản như trên có được xem như là hoạt động chuyển nhượng bất động sản không? Nếu được xem là hoạt động chuyển nhượng bất động sản để nộp thuế thì doanh thu tính thuế thu nhập doanh nghiệp của hoạt động chuyển nhượng này được tính như thế nào?” – phía doanh nghiệp lên tiếng.
Tổng Hợp
(Tiền Phong, Lao Động)