Trong báo cáo “So sánh tương quan khả năng đáp ứng rủi ro thanh khoản giữa các ngân hàng niêm yết” mới phát hành, các chuyên gia phân tích tại Công ty chứng khoán VNDirect đánh giá, thanh khoản căng thẳng đã và đang là một vấn đề đáng quan tâm đối với hệ thống ngân hàng trong thời gian gần đây.
Hiện chưa có lộ trình cụ thể cho các ngân hàng thương mại triển khai Basel III, tuy nhiên, đã có một số ngân hàng tiên phong trong việc triển khai bộ tiêu chuẩn để củng cố thêm chất lượng về vốn và đặc biệt là năng lực thanh khoản – đơn cử như TPBank, Vietcombank, HDBank, VIB, OCB…
Cần nhấn mạnh rằng, việc nâng cao quản trị rủi ro về thanh khoản cũng là một mục tiêu quan trọng đối với tất cả các ngân hàng thương mại để đạt được tiêu chuẩn Basel III – tiêu chuẩn giúp các ngân hàng nâng cao khả năng chống chịu trước các rủi ro và góp phần ngăn ngừa tổn thất có thể xảy ra.
Để có cái nhìn tổng quan hơn về khả năng chống chịu áp lực rủi ro thanh khoản của từng ngân hàng tại thời điểm hiện tại, các chuyên gia VNDirect dựa trên một vài tiêu chí về thanh khoản “L – liquidity” trong mô hình CAMELS.
Các chuyên gia cho rằng khi áp lực thanh toán ngắn hạn gia tăng đột biến, rủi ro thanh khoản sẽ được giảm thiểu nếu như ngân hàng đó có tỷ lệ Tài sản thanh khoản/Huy động khách hàng cao.
Bởi, tỷ lệ này càng cao thì có nghĩa rằng ngân hàng đó sẽ có khả năng dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt, đủ đáp ứng nghĩa vụ thanh toán ngắn hạn. Với tiêu chí này, TPBank, HDBank, MSB là những ngân hàng có xếp hạng tốt trong khi Sacombank có thứ hạng thấp nhất, SHB, LienVietPostBank, BIDV, và VietinBank cũng xếp gần cuối bảng.
Tỷ lệ Cho vay khách hàng/Huy động khách hàng – đo lường mức độ dồi dào của thanh khoản, càng cao thì ngân hàng đã tối ưu nguồn huy động vốn của mình. Vì vậy, chỉ số này càng thấp càng tốt. TPBank, MSB, HDBank và OCB đang là những ngân hàng có tỷ lệ cho vay khách hàng/huy động khách hàng ở mức thấp trong khi tại Sacombank, BIDV và VietinBank đang ở mức rất cao và cao.
Tương tự như tiêu chí số 1, tỷ lệ Tài sản thanh khoản/Tổng tài sản càng cao cho phép ngân hàng đó nhanh chóng đáp ứng đủ nghĩa vụ thanh toán ngắn hạn. Chỉ số này đang rất tốt ở TPBank, Vietcombank và ABBank.
Tỷ lệ Cho vay ngắn hạn/Dư nợ cho vay càng cao càng tốt. Tỷ lệ này đang ở mức tốt tại BIDV, Eximbank, ACB trong khi tại TPBank, OCB, VIB đang ở mức thấp. Tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn/Tổng huy động khách hàng càng cao thì ngân hàng đó ít chịu áp lực huy động vốn dài hạn để đáp ứng nhu cầu cho vay. MB, Tecombank và Vietcombank đang là những thành viên đang có lợi thế về tỷ lệ này.
Tỷ lệ Huy động tiền gửi từ tổ chức/Tổng huy động khách hàng. Từ góc độ thị trường, các chuyên gia VNDirect cho rằng, tỷ lệ tiền gửi của khách hàng tổ chức càng cao thì nguồn vốn huy động của ngân hàng càng ổn định. Vì vậy tỷ lệ này càng cao thì khả năng đáp ứng thanh toán của ngân hàng càng tốt.
Nguyên nhân trước hết đến từ áp lực tỷ giá khi đồng USD liên tục tăng giá và phá đỉnh 20 năm do Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) tiếp tục duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ ít nhất đến năm sau. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phải nâng mặt bằng lãi suất điều hành và hút nội tệ về để cân bằng tỷ giá, trong bối cảnh công cụ dự trữ ngoại hối đã không còn quá dồi dào.
Hơn nữa, thanh khoản hệ thống lại tiếp tục chịu áp lực trong bối cảnh các sai phạm về phát hành trái phiếu doanh nghiệp đang bị điều tra. Lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng trong 2 tuần đầu tháng 10 đã có thời điểm chạm mức 8%, cao nhất từ trước đến nay.
Dù vậy, các chuyên gia cho rằng rủi ro lên thanh khoản hệ thống ngân hàng là không lớn. Điều này được hỗ trợ bởi nhiều nguyên nhân.
Thứ nhất, những nỗ lực chống “đô la hóa” nền kinh tế và tăng cường giao dịch không tiền mặt của các cơ quan quản lý trong thời gian đã mang lại hiệu quả đáng kể. Theo quan sát, niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng được củng cố cũng như thói quen tích trữ tiền mặt đã giảm xuống rõ rệt, giúp thanh khoản hệ thống được bù đắp.
Thứ hai, vĩ mô ổn định và sức khỏe hệ thống ngân hàng hiện tại đã được cải thiện rất nhiều. Hiện gần 20 ngân hàng thương mại, chiếm đa số trong hệ thống đã được công nhận đạt chuẩn Basel II, trong đó có 6 ngân hàng đã hoàn thành cả 3 trụ cột. Bên cạnh đó tỷ lệ vốn ngắn hạn và cho vay trung và dài hạn đã giảm xuống 34% vào ngày 1/10/2022; và sẽ tiếp tục giảm xuống mức 30% từ ngày 1/10/2023.
Tổng Hợp