Nhận diện tín dụng, nợ xấu, NIM… nhóm ngân hàng niêm yết, nhiều ngân hàng buộc phải giảm mạnh NIM chênh lệch lãi suất đầu vào – ra và nợ xấu chỉ ít ngân hàng có độ bao phủ tốt.
Tỷ lệ nợ xấu của top 25 NH niêm yết lớn nhất tăng lên 2,1% tại cuối quý 2/2023 từ mức 1,9% tại cuối quý 1/20/23. Theo đó, tỷ lệ LLR cũng suy giảm từ 106% cuối Quý 1/2023 xuống 98% cuối Quý 2/2023. Ngoài ra, tổng giá trị nợ tái cơ cấu theo TT02/2023 đạt 62,5 nghìn tỷ tại cuối T6/23, tương đương với 0,5% tổng tín dụng toàn hệ thống (theo số liệu của NHNN).
Theo phân tích, NIM (chênh lệch lãi suất cho vay và huy động) toàn ngành (từ 25 NH niêm yết lớn nhất đã giảm xuống 3,41% trong Quý 2/23 với 19/25 ngân hàng ghi nhận mức sụt giảm ở NIM.
Trong nhóm các NH vừa và lớn, chỉ có STB, VIB và CTG có thể duy trì mức NIM cao hơn so với cùng kỳ. Cụ thể, VIB và CTG đã thành công trong việc tận dụng nguồn vốn liên ngân hàng (có sự sụt giảm mạnh trong Quý 2/23) khi tỷ lệ vốn liên ngân hàng/tổng nguồn vốn của VIB và CTG tăng lần lượt 4,3% và 4,9% so với cùng kỳ tại cuối Q2/23. NIM của STB cải thiện mạnh trong 2023 khi không còn áp lực lãi dự thu. Trong khi đó, NIM của các ngân hàng như VPB, TCB, LPB và TPB tiếp tục giảm mạnh nhất khi thị trường TPDN và bất động sản vẫn gặp khó khăn trong vấn đề thanh khoản.
CASA (tiền gửi không kỳ hạn) toàn ngành cho thấy sự cải thiện từ mức 17,6% tại cuối Quý 1/2023 lên 18,2% tại cuối Quý 2/2023 khi lãi suất tiền gửi giảm liên tục theo 4 lần cắt giảm lãi suất điều hành. “Chúng tôi kỳ vọng chi phí vốn sẽ giảm mạnh hơn khi lần thứ 3 và 4 cắt giảm lãi suất diễn ra vào cuối Quý 2/2023 sẽ có hiệu lực toàn bộ từ nửa cuối 2023 trở đi. Tuy nhiên, không kỳ vọng sự cải thiện ở NIM ngay lập tức khi việc cắt giảm lãi suất vẫn là ưu tiên hàng đầu để thúc đẩy hoạt động kinh tế. Cho nửa cuối năm, chúng tôi kỳ vọng một số NH sở hữu: tỷ lệ cho vay cá nhân cao, tỷ lệ LDR thấp và tỷ trọng vốn ngoại tệ trên tổng nguồn vốn thấp sẽ có nhiều cơ hội để cải thiện NIM tốt hơn toàn ngành như MBB, VIB.
Theo nhóm phân tích tại cuối quý II, tín dụng toàn hệ thống tăng 4,7% so với đầu năm – thấp hơn mức tăng 9,4% tại cuối quý này, nhưng đã tăng đáng kể từ mức 3,17% tại cuối tháng 5.
Trong quý II, những nhà băng có tỷ lệ cho vay cao với ngành bất động sản (BĐS) như TCB, HDB cho thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm lại khi thị trường BĐS vẫn đang trong giai đoạn khó khăn (tăng trưởng tín dụng của TCB và HDB chỉ đạt lần lượt 0,57% và 0,19% so với quý trước).
Trong khi đó, các ngân hàng (NH) có tỷ lệ cho vay bán lẻ cao đạt mức tăng trưởng tín dụng ấn tượng trong Q2/23 (ACB: 5,51%; VIB: 2,19% so với quý trước), cho thấy dấu hiệu hồi phục nhẹ từ nhu cầu tiêu dùng.
MBB, với kế hoạch tham gia tái cấu trúc một TCTD yếu kém, cũng đạt mức tăng trưởng tín dụng cao trong Quý 2/23 (6,49% so với quý trước) cũng như giới hạn tín dụng tốt hơn so với ngành (~24%).
Trường hợp tương tự với VPB (tăng trưởng tín dụng đạt 5,0% sv quý trước và ~24% hạn mức cho năm 2023) chủ yếu nhờ thanh khoản dồi dào sau thương vụ bán 15% vốn cho SMBC. Cho nửa cuối năm, bên cạnh dư địa tín dụng còn lại, giới phân tích kỳ vọng những NH có tỷ lệ cao về cho vay bán lẻ như VIB, ACB có nhiều cơ hội để cải thiện tăng trưởng tín dụng khi Việt Nam đang dần bước vào giai đoạn phục hồi ban đầu. Ngược lại, những NH có tỷ lệ cho vay BĐS cao có thể sẽ gặp khó khăn trong việc mở rộng tín dụng khi TT06/2023 (hiệu lực từ tháng 9/2023) sẽ giới hạn khả năng tiếp cận vốn của các DN.
Tổng Hợp
(Tiền Phong)