Theo Ngân hàng Nhà nước, trong quá trình triển khai quy định liên quan đến xử lý nợ xấu có một số khó khăn vướng mắc về khuôn khổ pháp lý.Cho rằng hành lang pháp lý cho hoạt động xử lý nợ xấu đã hình thành nhưng được quy định rải rác tại nhiều văn bản, Ngân hàng Nhà nước đề nghị luật hoá các chính sách quy định tại Nghị quyết 42/2017/QH14 để tiếp tục triển khai, áp dụng trong xử lý nợ xấu của các TCTD, theo hướng ban hành 1 luật riêng quy định về xử lý nợ xấu.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, trong thời gian tới, cơ quan quản lý sẽ tăng hạn mức tín dụng cho các ngân hàng và điều chỉnh phù hợp lãi suất theo đúng cam kết. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục theo dõi sát sao diễn biến lãi suất của thị trường và chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí, cân đối, xem xét hạ thêm lãi suất cho vay để hỗ trợ doanh nghiệp, cá nhân chịu ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19.
Trước đó, trong quý III/2021, một loạt ngân hàng đã được nới hạn mức tín dụng, cao nhất là TPBank và Techcombank, lên lần lượt là 17,4% và 17%. Một số ngân hàng khác được nới hạn mức tín dụng lên 13 – 16% như ACB, MB, LienVietPostBank, VIB…, tùy thuộc vào “sức khỏe” tài chính và mức độ rủi ro, hỗ trợ lãi vay.
Mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm nay của ngành ngân hàng là 12%, nhưng có thể sẽ được điều chỉnh. Theo báo cáo mới đây của Tổng cục Thống kê, tính đến 20/9/2021, tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 7,17%, cao hơn nhiều mức tăng trưởng của cùng kỳ năm 2020 là 4,99%, nhưng vẫn thấp hơn so với trước khi đại dịch xuất hiện và thấp hơn mức tăng 7,42% trong 8 tháng đầu năm.
Trong 6 tháng đầu năm 2021, tổng số nợ xấu nội bảng được xử lý là 78,86 nghìn tỷ đồng, trong đó sử dụng dự phòng rủi ro là 33,13 nghìn tỷ đồng, chiếm 42%; thông qua bán nợ là 18,66 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,7%; khách hàng trả nợ là 20,55 nghìn tỷ đồng, chiếm 26,11%. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và các khoản tiềm ẩn trở thành nợ xấu đến cuối tháng 6/2021 là 3,66%. Nếu tính cả các khoản nợ không bị chuyển nợ xấu do được cơ cấu lại, miễn, giảm lãi theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN do ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 thì tỷ lệ này là 7,21% (cuối năm 2020 là 5,08%).
Về xử lý nợ xấu được xác định theo Nghị quyết 42, lũy kế từ 15/8/2017 đến 30/6/2021, đã xử lý được 359,41 nghìn tỷ đồng . Trong đó xử lý nợ xấu nội bảng (không bao gồm xử lý bằng sử dụng dự phòng rủi ro và bán nợ cho VAMC thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt (TPĐB) là 187,18 nghìn tỷ đồng (chiếm 52,08% tổng nợ xấu đã xử lý). Xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán xác định theo Nghị quyết 42 là 93,63 nghìn tỷ đồng (chiếm 26,05%). Xử lý các khoản nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 đã bán cho VAMC được thanh toán bằng TPĐB là 78,60 nghìn tỷ đồng (chiếm 21,87%). Bên cạnh đó, đến thời điểm 30/6/2021, các TCTD đã sử dụng 179,57 nghìn tỷ đồng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu nội bảng và bán nợ xấu cho VAMC thông qua phát hành TPĐB đạt 35,93 nghìn tỷ đồng.
Lãnh đạo NHNN báo cáo, trước khi có Nghị quyết 42, nợ xấu của toàn hệ thống các TCTD chủ yếu được xử lý bằng dự phòng rủi ro, các biện pháp xử lý nợ xấu thông qua xử lý TSBĐ và khách hàng trả nợ còn chưa cao. Tuy nhiên, kể từ khi Nghị quyết 42 có hiệu lực từ 15/8/2017 đến 30/6/2021, xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết 42 chủ yếu thông qua hình thức khách hàng trả nợ là 138,34 nghìn tỷ đồng (chiếm 38,5% tổng nợ xấu theo Nghị quyết 42 đã xử lý), cao hơn nhiều tỷ trọng nợ xấu được xử lý do khách hàng tự trả nợ/tổng nợ xấu đã xử lý trung bình năm từ 2012-2017 là khoảng 22,8%.
Lãnh đạo NHNN cũng cho biết, trong quá trình triển khai quy định liên quan đến xử lý nợ xấu có một số khó khăn vướng mắc về khuôn khổ pháp lý như: Hành lang pháp lý cho hoạt động xử lý nợ xấu đã hình thành nhưng được quy định rải rác tại nhiều văn bản và chưa có Luật xử lý nợ xấu. Việc thực hiện thứ tự ưu tiên về thanh toán khi xử lý TSBĐ theo quy định tại Nghị quyết 42; việc thu giữ TSBĐ; áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản và xử lý TSBĐ; việc hoàn trả vật chứng; công tác phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự…cũng có những vướng mắc.
Gửi báo cáo đến cơ quan của Quốc hội phục vụ quá trình thẩm tra về tình hình, kinh tế xã hội trước kỳ hop thứ hai của Quốc hội khóa XV, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, năm 2021 vẫn tích cực triển khai các biện pháp xử lý nợ xấu, kiểm soát và hạn chế nợ xấu mới phát sinh.
Báo cáo nêu rõ, trước tình hình phức tạp của dịch Covid-19, NHNN đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh giá thực trạng nợ xấu để xây dựng kế hoạch xử lý nợ xấu bảo đảm phù hợp với diễn biến dịch bệnh; đồng thời tiếp tục tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế phát sinh nợ xấu mới; tự xử lý nợ xấu bằng các biện pháp đôn đốc khách hàng trả nợ; bán, phát mại tài sản bảo đảm của khoản nợ; bán nợ theo cơ chế thị trường; sử dụng dự phòng rủi ro… Về xử lý nợ xấu nội bảng, theo báo cáo, do tác động của dịch bệnh Covid-19, nợ xấu của các TCTD có xu hướng tăng trong những tháng đầu năm. Đến cuối tháng 6/2021, tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 1,73% (cuối năm 2020 là 1,69%).
Theo lãnh đạo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, để chuẩn bị cho giai đoạn phục hồi kinh tế từ nay đến hết năm 2021 và đầu năm 2022, Ngân hàng Nhà nước sẽ điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý, gắn với nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát nợ xấu. Bà Nguyễn Thị Hồng cho hay, trong chỉ đạo, điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, Ngân hàng Nhà nước thực hiện đồng bộ các giải pháp khuyến khích dòng vốn tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản xuất – kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán, các dự án BOT, BT giao thông…
Ngân hàng Nhà nước mới đây đã lấy ý kiến về dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo dự thảo, tổ chức tín dụng có quyền tự chủ trong việc tổ chức đánh giá, sử dụng kết quả đánh giá rủi ro môi trường của dự án đầu tư, phương án sản xuất – kinh doanh của khách hàng để thực hiện quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng.
Tĩnh Kiên
(Tổng Hợp)