Tại Việt Nam, sau năm 1975 các nhân viên, cán bộ thường được phân nhà ở trong các phòng của một biệt thự hoặc nhà phố 3, 4 tầng. Đây chính là hình thức chung cư mini.
Một tòa nhà có nhiều căn hộ cho thuê hoặc sở hữu riêng đã có ở các thành phố Âu Mỹ từ lâu. Nó thường là nhà phố 3 – 4 tầng, mỗi tầng có một số phòng như căn hộ, có phòng dùng cho thuê, có phòng là sở hữu của cá nhân trong tòa nhà. Tất nhiên căn nhà (tòa nhà) này không có những tiện ích chung như chung cư hiện đại như hồ bơi, sân chơi, phòng gym… Nhưng đây là mô hình ở khá tốt cho cư dân đô thị của nhiều thành phố châu Âu và Mỹ.
Tại Việt Nam, sau năm 1975 các nhân viên, cán bộ thường được phân nhà ở trong các phòng của một biệt thự hoặc nhà phố 3, 4 tầng. Đây chính là hình thức chung cư mini. Những người này được Nhà nước công nhận quyền sở hữu diện tích được phân,nhưng không cấp sổ hồng. Sau đó, họ bán nhà thông qua giấy tờ viết tay.
Rõ ràng các dạng chung cư mini (được hiểu là các căn nhà phố, nhà hẻm được thiết kế theo từng phòng để cho người ở độc lập theo các dạng phòng trọ, căn hộ dịch vụ…) đang là loại hình đáp ứng đa dạng cho người lao động muốn ở trong các khu vực nội thành để tiện làm việc, sinh hoạt.
Những người này bao gồm các gia đình chưa đủ tiền mua nhà, những người độc thân, những người học hành công tác ngắn hạn, những người chọn cách ở thuê… mà khá nhiều là thu nhập trung bình khá trở xuống. Và đây là số đông khá phổ biến tại các thành phố lớn như Hà Nội và TPHCM. Và chung cư mini đã đáp ứng đươc nhu cầu này.
Do vậy, vấn đề chính ở đây phải là các phương án PCCC và thoát hiểm để bảo đảm khi có cháy nổ. Các phương án này cần làm tốt một cách hợp lý từ cơ quan PCCC và trách nhiệm của người quản lý toà nhà thì mô hình này sẽ phát huy tác dụng. Còn nếu theo phương án của cơ quan PCCC quá nghiêm ngặt bất hợp lý thì sẽ khó thực hiện. Ở chiều ngược lại, cán bộ PCCC và chủ tòa nhà vì lợi ích mà không quản lý tốt thì hậu quả sẽ ghê gớm.
Như vậy, chúng ta cần hiểu vai trò của chung cư mini, và cách thức hợp lý để quản lý an toàn.
Khá ngạc nhiên vì chữ “Mini” là tiếng nước ngoài, nhưng thuật ngữ chung cư mini lại được thể hiện trong văn bản hành chính thay vì dùng thuật ngữ “chung cư loại nhỏ”. Dưới đây là một số quy định pháp lý về loại hình này:
Theo Luật nhà ở 2014 định nghĩa nhà chung cư là nhà có từ 2 tầng trở lên, có nhiều căn hộ, có lối đi, cầu thang chung, có phần sở hữu riêng, phần sở hữu chung và hệ thống công trình hạ tầng sử dụng chung cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, bao gồm nhà chung cư được xây dựng với mục đích để ở và nhà chung cư được xây dựng có mục đích sử dụng hỗn hợp để ở và kinh doanh.
Điều 22, Nghị định 71, quyết định số 24/2014/QĐ-UBND của UBND TP Hà Nội nêu rõ chung cư mini là nhà ở do hộ gia đình, cá nhân xây dựng có từ hai tầng trở lên mà tại mỗi tầng có từ hai căn hộ trở lên và mỗi căn hộ được thiết kế, xây dựng theo kiểu khép kín (có phòng ở riêng, khu bếp riêng, nhà vệ sinh, nhà tắm riêng), diện tích sàn xây dựng phải đạt tiêu chuẩn nhất định và đáp ứng các tiêu chuẩn khác của Luật Nhà ở hiện hành.
Theo luật quy định thì diện tích căn hộ chung cư mini từ 30m2-50m2.
Để được cấp giấy phép xây dựng chung cư mini chủ đầu tư phải tuân thủ các điều kiện cấp giấy phép xây dựng nhà ở riêng lẻ, bao gồm hồ sơ, tiêu chuẩn, quy chuẩn và mục đích sử dụng đất.
Tuy nhiên, việc cấp giấy phép xây dựng cho tòa chung cư mini có thể được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận hoặc không chấp thuận, phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Tổng Hợp