Từ năm 2020 đến nay, dịch bệnh Covid-19 khiến tỷ lệ nợ xấu và nợ nhóm 2 có xu hướng tăng trở lại. Tuy nhiên, các tỷ lệ vẫn được giữ ở trong ngưỡng an toàn, đặc biệt là tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng mạnh.
Dịch bệnh kéo dài trong suốt 2 năm và vẫn đang diễn biến phức tạp. Những khó khăn như vòng quay vốn chậm, dòng tiền đứt gãy, doanh nghiệp bị sụt giảm doanh thu, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, gia tăng rủi ro về thu hồi nợ… sẽ tác động mạnh hơn đến hoạt động ngân hàng năm 2022 do có độ trễ.
Nhìn lại giai đoạn 2016 – 2019, tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ nợ nhóm 2 có xu hướng giảm. Việc tích cực giảm tỷ lệ nợ xấu cho thấy chất lượng tài sản của ngân hàng có sự cải thiện qua từng năm. Mặc dù vậy, từ năm 2020 đến nay, dịch bệnh Covid-19 khiến tỷ lệ nợ xấu và nợ nhóm 2 có xu hướng tăng trở lại. Tuy nhiên, các tỷ lệ vẫn được giữ ở trong ngưỡng an toàn, đặc biệt là tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng mạnh.
Dự phòng rủi ro được coi như “của để dành” của các ngân hàng, là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra nếu khách hàng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Theo Thông tư 14/2021/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung Thông tư 01/2020/TT-NHNN và Thông tư 03/2021/TT- NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, ngân hàng bắt buộc phải trích 30% dự phòng phần dư nợ tái cơ cấu vào cuối năm 2021 và 100% tính đến cuối năm 2023.
Đến cuối quý III/2021, dự phòng rủi ro cho vay khách hàng của VietinBank là 21.500 tỷ đồng, tăng 8.900 tỷ đồng (tương đương tăng 71%) so với đầu năm 2021. Chi phí dự phòng rủi ro cho vay trích lập trong 9 tháng đầu năm 2021 là 14.000 tỷ đồng, tăng 2.500 tỷ đồng (tương đương tăng 22%) so với cùng kỳ năm 2020. Riêng quý III/2021, VietinBank trích lập 5.500 tỷ đồng. Ngân hàng đẩy mạnh trích lập dự phòng khi tỷ lệ nợ xấu tăng lên 1,67%, cao nhất trong 4 quý gần đây.
Tương tự, số dư nợ xấu của Vietcombank từ 5.230 tỷ đồng thời điểm đầu năm 2021 tăng lên 10.884 tỷ đồng tính đến cuối quý III/2021, kéo theo tỷ lệ nợ xấu tăng từ 0,62% lên 1,16%, chi phí dự phòng tăng lên 8.012 tỷ đồng, cao hơn 33% so với cùng kỳ năm 2020. Riêng trong quý III/2021, Vietcombank trích lập dự phòng 2.500 tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ năm 2020.
Trong diễn biến có liên quan, VPBank chủ động trích lập dự phòng rủi ro cho các khoản nợ bị ảnh hưởng bởi đại dịch. Chi phí dự phòng hợp nhất đến cuối tháng 9/2021 là 13.631 tỷ đồng. Riêng trong quý III/2021, Ngân hàng đã dành 4.979 tỷ đồng cho chi phí dự phòng, tăng 18,6% so với quý liền trước.
Một lãnh đạo cao cấp của Vietcombank cho biết, nợ xấu toàn ngành tăng có mức độ phân hóa rõ rệt giữa các ngân hàng. Tuy nhiên, với bất động sản là tài sản bảo đảm chính cho phần lớn các khoản vay hiện đang tăng giá mạnh, hoạt động thu hồi nợ xấu dễ dàng hơn so với giai đoạn trước. Một số ngân hàng ghi nhận tỷ trọng cho vay bảo đảm bằng ô tô cũng không gặp khó khăn trong việc thu hồi tài sản do ô tô khi vay đứng tên ngân hàng.
Mục thanh lý tài sản trên website của VIB có điểm nhấn bằng chữ “Hot” đặt trên nền đỏ. Danh mục hàng hoá đa dạng, từ phương tiện vận tải đến bất động sản và thiết bị, máy móc tại nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước. Trừ phương tiện vận tải không niêm yết giá khởi điểm, mà được ghi chú là thương lượng, còn bất động sản, máy móc đều niêm yết giá cụ thể và các thông số cơ bản của tài sản thanh lý được chú thích rõ ràng.
Tấm đệm phòng thủ rủi ro tiếp tục được các ngân hàng làm dày thêm trong bối cảnh nguy cơ bùng phát nợ xấu do dịch bệnh vẫn còn hiện hữu. Số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, dù tỷ lệ nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống vào cuối năm 2020 chỉ ở mức 1,9%. Tuy nhiên, nếu tính cả dư nợ của khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi theo Thông tư 01 có nguy cơ chuyển thành nợ xấu thì tỷ lệ nợ xấu có thể lên tới 7,31%.
Biên lợi nhuận từ lãi (NIM) của ngành ngân hàng giảm từ mức 30,6% năm 2016 xuống 24,4% năm 2020. Trong thời gian đại dịch, các tổ chức tín dụng đều phải thực hiện giảm lãi suất theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước nhằm hỗ trợ các khách hàng bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, chất lượng tài sản giảm kéo theo gánh nặng chi phí trích lập dự phòng. Đây là 2 yếu tố chính khiến NIM giảm.
Tổng Hợp