Phát biểu tại một diễn đàn, ông Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, NHNN cho biết, khái quát về điều hành chính sách tiền tệ năm 2022 là rất khó khăn, tình trạng này có thể kéo dài tới năm 2023, khi không còn nhiều dư địa và có thể phải lách qua “khe cửa hẹp”.
Năm 2022 có thể nói là một năm đầy khó khăn, thách thức đối với nền kinh tế nói chung, thị trường tiền tệ nói riêng. Đặc biệt là khi chính sách tiền tệ (CSTT) cùng lúc phải thực thi nhiều nhiệm vụ, mục tiêu đan xen, thậm chí có thời điểm mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên NHNN đã điều hành CSTT hết sức chủ động, linh hoạt theo sát diễn biến kinh tế trong nước và quốc tế, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác để kiềm chế lạm phát đạt mục tiêu như Quốc hội và Chính phủ đã đề ra, đồng thời hỗ trợ tăng trưởng đạt mức cao nhất trong nhiều năm trở lại đây; trong khi thị trường tiền tệ, ngoại hối được duy trì ổn định, vững vàng trước những biến động bất thường của thị trường toàn cầu.
Đại diện NHNN cho biết, vào thời điểm cuối năm 2021 và đầu năm 2022, hầu hết các nhà hoạch định chính sách trên thế giới, đặc biệt là các định chế lớn đã sai lầm khi nhận định lạm phát chỉ mang tính thời điểm, trong khi thực tế đã lên mức cao nhất 40 năm. Sau đó, các ngân hàng trung ương đã nhanh chóng chuyển hướng từ nới lỏng tiền tệ không giới hạn sang thắt chặt cực đoan. Ví dụ như Fed đã tăng 4 lần lãi suất với mức tăng 0,75 điểm phần trăm (mỗi lần) – là mức cao bất thường so với lịch sử.
Trong bối cảnh đó, giá USD đã tăng lên mức cao nhất 20 năm. Riêng trong năm 2021, chỉ số DXY đo sức mạnh đồng USD tăng tới 21%. “Điều này tạo áp lực khủng khiếp lên chính sách tiền tệ của các nước đang phát triển và mới nổi. Dòng tiền trên thế giới, dự trữ ngoại hối các nước sụt giảm nghiêm trọng, đã mất khoảng 9% trên tổng dữ trự ngoại hối thế giới”, ông Quang nói.
Riêng với Việt Nam, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ nhấn mạnh, với độ mở nền kinh tế lớn thì khả năng chống chọi với cú sốc khủng khiếp đó là cực kỳ căng thẳng.
Theo đó, năm 2022, nổi lên một số thách thức lớn. Một là làm thế nào để điều hành tín dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế mà vẫn phải đảm bảo an toàn hệ thống, trong khi một số chỉ tiêu tiền tệ như tỷ lệ tín dụng/huy động vốn và dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam đã và đang ở ngưỡng cảnh báo.
Cụ thể, hiện tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP đã lên tới 124% – mức cao nhất đối với các nước có thu nhập trung bình thấp. Dư nợ tín dụng của toàn nền kinh đã lên tới 12 triệu tỷ đồng.
Ông Quang nhấn mạnh, đặc thù của nền kinh tế việt nam là phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng ngân hàng, cho nên áp lực đối với tín dụng trong bối cảnh biến động của năm 2022 lại càng khó khăn, gây sức ép lên chính sách tiền tệ.
Thứ hai là làm thế nào ổn định được thị trường ngoại hối khi nền kinh tế của ta có độ mở lớn, sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, đồng USD tăng giá mạnh, Việt Nam đang trong giai đoạn giám sát nâng cao về thao túng tiền tệ của phía Hoa kỳ…
Thứ ba là làm thế nào ổn định được an toàn hệ thống khi thanh khoản hệ thống và niềm tin của thị trường chịu tác động mạnh bởi sự cố SCB chưa từng có tiền lệ.
Bước sang năm 2023, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ cho biết, mục tiêu xuyên suốt của điều hành chính sách tiền tệ là giữ được sự ổn định của đồng tiền, kiểm soát lạm phát.
“Rất may cuộc khủng hoảng lần này rất khác hồi năm 2008. Đến nay, ngành ngân hàng đã vững vàng, nợ xấu thấp, chất lượng bảng cân đối tài sản tốt hơn nhiều”, ông Quang chia sẻ.
Ông Quang nhấn mạnh rằng, năm 2023, Ngân hàng Nhà nước sẽ hành động theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Trong đó, yếu tố bất biến là kiểm soát lạm phát, còn cách thức điều hành thì rất linh hoạt. Một mặt Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ nền kinh tế nhưng mặt khác không chủ quan với lạm phát.
Trong thời gian tới, bối cảnh kinh tế toàn cầu tiếp tục còn nhiều yếu tố bất lợi và khó lường, các NHTW tiếp tục duy trì thắt chặt CSTT, tăng lãi suất để tiếp tục kiểm soát lạm phát. Mặc dù lạm phát trong nước hiện vẫn đang được kiểm soát, tuy nhiên, áp lực sẽ tiếp tục gia tăng trong năm 2023, đặc biệt là lạm phát cơ bản có thể tạo nhiều thách thức đối với kiểm soát lạm phát trong năm 2023, đến từ cả yếu tố bên cung (chi phí đẩy) và bên cầu (cầu kéo). Về phía cung, tác động vòng 2 từ giá hàng hóa thế giới tăng cao trong các năm 2020-2022 sẽ tiếp tục được phản ánh vào chi phí sản xuất (lạm phát nhập khẩu) và từ đó tác động vào chi phí tiêu dùng các mặt hàng trong nước. Về phía cầu, dự kiến kinh tế trong nước tiếp tục quá trình phục hồi, qua đó thúc đẩy phục hồi và tăng nhanh tổng cầu của nền kinh tế, gây áp lực lên giá cả. Do đó, chúng ta không thể chủ quan với rủi ro lạm phát năm 2023.
Do đó, để thực hiện thành công mục tiêu lạm phát bình quân năm 2023 khoảng 4,5% mà Quốc hội đặt ra, thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ CSTT để kiểm soát lạm phát; góp phần ổn định vĩ mô, hỗ trợ phục hồi kinh tế; điều hành lãi suất phù hợp với tình hình kinh tế vĩ mô, diễn biến lạm phát và mục tiêu CSTT, hỗ trợ phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh; điều hành tỷ giá linh hoạt, phối hợp đồng bộ với các biện pháp và công cụ CSTT để ổn định thị trường ngoại tệ; sẵn sàng can thiệp thị trường tiền tệ, ngoại hối để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của TCTD, qua đó góp phần ổn định thị trường, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Hiện nay, vốn đầu tư trung dài hạn của nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống ngân hàng, trong khi huy động vốn của ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, do đó hệ thống các TCTD đối mặt với rủi ro thanh khoản, rủi ro kỳ hạn. Để đảm bảo nguồn vốn cho phát triển kinh tế thì cần phát triển thị trường vốn một cách an toàn, bền vững như thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán, theo đó cần rà soát lại các quy định pháp lý và có giải pháp khắc phục những bất cập hiện nay trên các thị trường này.
Tổng Hợp
(Nhà Đầu Tư, VietnamFinance)