Đây là giai đoạn “vốn đắt”, nên các doanh nghiệp phải tự chủ động xây dựng các kịch bản từ nay đến hết 2023, trong đó tập trung đánh giá các yếu tố tác động đến doanh nghiệp để tìm cách ứng phó kịp thời. Các kênh dẫn vốn đều ách tắc, lãi vay tăng mạnh…
Huy động từ các nguồn vốn cá nhân cũng được nhiều doanh nghiệp lựa chọn trong bối cảnh hiện tại vì thủ tục nhanh gọn, song không phải dễ thực hiện.
Một số doanh nghiệp lựa chọn kênh vay vốn thông qua một số công ty chứng khoán, dựa trên tài sản thế chấp chính là cổ phiếu của doanh nghiệp. Điều này một phần lý giải vì sao thị trường chứng khoán khó khăn trong giai đoạn vừa qua, nhưng dư nợ margin tại nhiều công ty chứng khoán vẫn tăng so với giai đoạn đầu năm.
TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế cho biết, vốn ngân hàng hiện chiếm khoảng 50% tổng lượng vốn cung ứng cho nền kinh tế, trong đó hơn một nửa là cho vay ngắn hạn. Trong khi, từ nay đến năm 2030, Việt Nam cần khoảng 700.000 – 1.000.000 tỷ đồng vốn trung và dài hạn mỗi năm để đầu tư cho nền kinh tế.
Ngoài nguồn vốn từ ngân hàng, doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn từ nhiều kênh khác như từ thị trường chứng khoán, trái phiếu, thị trường vốn, các quỹ đầu tư. Tuy nhiên, các kênh huy động này đều đang gặp phải những khó khăn do “hiệu ứng dây chuyền”, dù vậy, không phải là không có hướng ra.
Theo ông Lực, doanh nghiệp có thể tìm đến nguồn vốn thông qua các quỹ đầu tư. Chẳng hạn như trong chủ trương phát triển năng lượng sạch, đã có một số doanh nghiệp phát hành được những trái phiếu xanh và gọi được nguồn vốn để triển khai dự án.
Ông Hoàng Văn Tăng, Tổng giám đốc Tổng công ty cổ phần Đầu tư phát triển xây dựng (mã DIG) cho biết, ba kênh cấp vốn chính cho doanh nghiệp là thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu doanh nghiệp và ngân hàng đều đang gặp khó khăn.
“Giai đoạn này, doanh nghiệp nào có sức chống chịu tốt mới có thể tồn tại được”, ông Tăng nhận xét.
Theo ông Tăng, DIG hiện tỷ lệ vốn vay trên vốn chủ sở hữu ở mức khá an toàn, “nhưng nếu ách tắc nguồn vốn càng kéo dài thì doanh nghiệp nào cũng sẽ bị ảnh hưởng”.
Lãnh đạo một doanh nghiệp xây dựng đang niêm yết cổ phiếu trên sàn HNX cũng chia sẻ, đảm bảo thanh khoản đang là một thách thức lớn của doanh nghiệp ông, do công tác thanh quyết toán với các chủ đầu tư khó khăn.
Tình trạng nhà thầu xây dựng bị nợ đọng đang rất phổ biến trên thị trường, đặc biệt ở 25 – 30% khối lượng xây dựng cuối cùng của dự án. Dù một số dự án đã đưa vào khai thác, sử dụng nhưng đến nay vẫn chưa quyết toán được, trong khi nhà thầu phải vay tín dụng ngân hàng, chịu lãi suất cao dẫn đến tình trạng nợ chồng nợ.
Tương tự, tại Công ty cổ phần Fecon (mã FCN), ông Nguyễn Việt Khoa, Chủ tịch Hội đồng quản trị cho biết, ở giai đoạn này, việc cân đối dòng tiền của doanh nghiệp đang bị ảnh hưởng từ diễn biến của thị trường xây dựng và hoạt động tín dụng chung không thuận lợi.
Báo cáo tài chính hợp nhất quý III/2022 của Fecon cho thấy, trong quý III, chi phí tài chính tăng mạnh 50,8% so với cùng kỳ, lên 55,8 tỷ đồng; trong đó chủ yếu là chi phí lãi vay. Chi phí lãi vay tăng đã kéo lợi nhuận thuần từ kinh doanh giảm 78,7% so với cùng kỳ về mức 4,9 tỷ đồng.
Lợi nhuận sau thuế quý này của Fecon chỉ còn 749 triệu đồng, giảm hơn 96% so với cùng kỳ và giảm 90% so với quý trước đó. Lũy kế 9 tháng, Công ty ghi nhận doanh thu thuần 2.205 tỷ đồng, giảm nhẹ so với cùng kỳ; lợi nhuận sau thuế giảm mạnh 97,1% so với cùng kỳ, chỉ còn 2 tỷ đồng.
Tại thời điểm cuối tháng 9/2022, nợ phải trả của Công ty là 4.127 tỷ đồng, giảm 9,5% so với đầu năm. Nợ vay tăng nhẹ lên 2.671 tỷ đồng; trong đó vay ngắn hạn là 1.411 tỷ đồng (tăng 5,9%), vay dài hạn 1.259 tỷ đồng (tăng 10,3%). Tính đến ngày 30/9/2022, dòng tiền kinh doanh của Công ty âm 162 tỷ đồng. Trong khi đó, dòng tiền đầu tư cũng âm 423 tỷ đồng, tăng khoảng 588 tỷ đồng so với cùng kỳ.
Mặt bằng lãi suất huy động tăng cao trong thời gian qua ở tất cả các kỳ hạn, với lãi suất kỳ hạn từ 6 tháng trở lên phổ biến ở mức 7,6 – 8,2%/năm, một vài ngân hàng đã áp dụng lãi suất trên 10%/năm cho khoản tiền gửi giá trị lớn, kỳ hạn dài. Theo đó, lãi suất cho vay cũng được điều chỉnh theo. Một số ngân hàng đã thông báo điều chỉnh mức lãi suất cho vay lên 10 – 12%/năm, thậm chí có những khoản vay chịu lãi suất từ 15-16%/năm, tăng mạnh so với mức 8 – 9%/năm trước đó.
Theo ông Nguyễn Hồng Long, Phó trưởng ban chuyên trách Ban chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp cho biết, trong hai năm vừa qua, Việt Nam đã chống chọi rất tốt với COVID-19, các doanh nghiệp tồn tại, củng cố và phát triển trong khi rất nhiều nền kinh tế lớn mạnh trên thế giới gặp khó khăn.
Tuy nhiên, ông Long nhấn mạnh, có thể bắt đầu từ quý IV/2022 và năm 2023, nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn thách thức hơn khi thị trường bất động sản, chứng khoản trong nước sụt giảm; đối mặt với suy thoái kinh tế thế giới và cuộc chiến tranh Nga – Ukraine.
Theo các chuyên gia, không chỉ các doanh nghiệp gặp khó khăn mà các ngân hàng thương mại (NHTM) cũng đang và sẽ rất khó khăn để cấp vốn cho nền kinh tế.
Ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) cho biết, theo thông lệ ngân hàng chỉ là nơi cung cấp vốn lưu động, chủ yếu là vốn ngắn hạn cho nền kinh tế, doanh nghiệp muốn huy động vốn trung, dài hạn thì phải ra thị trường vốn. Nhưng hiện nay ngân hàng phải gánh cả vai của thị trường vốn, hậu quả là cả doanh nghiệp và ngân hàng đều đang mất cân đối nghiêm trọng khi xảy ra tình trạng trái phiếu chưa đến hạn đã phải trả trước hạn.
“Việc phải trả cả trái phiếu chưa đến hạn, buộc doanh nghiệp phải lấy cả nguồn tiền sản xuất kinh doanh, thậm chí cả vốn vay ngân hàng để trả nợ. Điều này cũng khiến doanh nghiệp nảy ra đề xuất ngân hàng tăng room để bổ sung vốn cho doanh nghiệp”, ông Hùng nói.
Phân tích khó khăn mà các ngân hàng đang đối mặt, Tổng thư ký VNBA cho biết, trong 2 năm COVID, NHNN đã ban hành 3 thông tư về tái cơ cấu, giãn hoãn nợ cho doanh nghiệp giúp ngân hàng có thể tiếp tục cho vay và doanh nghiệp có vốn cho sản xuất kinh doanh. Nhưng NHNN không thể kéo dài mãi hoạt động giãn, hoãn nợ (Thông tư 14 kết thúc vào ngày 30/6/2022) vì ngân hàng cũng không thể có vốn nếu không thu hồi được nợ.
Thông điệp của NHNN rất rõ ràng, kiên định mục tiêu tăng trưởng tín dụng 14% trong năm 2022, có sự linh hoạt với diễn biến vĩ mô. Tuy nhiên, theo ông Hùng, đến nay dư nợ tín dụng là 11,8 triệu tỷ đồng, tăng hơn 11% so với đầu năm, trong khi tăng trưởng nguồn vốn chỉ 4,8% – như vậy NHNN có nới thêm room tín dụng thì ngân hàng thương mại cũng không có vốn để cho vay tiếp thêm.
Tổng Hợp