Mới đây, trả lời phỏng vấn báo chí, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc khẳng định, việc đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư luôn được thực hiện một cách nghiêm túc. Phong tỏa tài khoản hàng trăm công ty để bảo vệ, thu tiền trái phiếu cho nhà đầu tư.
Một số công ty sai phạm chỉ là đơn lẻ và đã bị xử lý pháp luật để lành mạnh thị trường. Các công ty phát hành này đã cam kết trả đúng hạn trái phiếu đến hạn.
Ngày 14/11, Bộ Tài chính tiếp tục đưa ra một số khuyến nghị với các nhà đầu tư, doanh nghiệp liên quan đến vấn đề trái phiếu doanh nghiệp (TPDN). Đồng thời, Bộ này khẳng định sẽ tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện khung pháp lý và tăng cường hiệu quả kiểm tra, giám sát. Trước mắt, việc triển khai Nghị định số 65/2022/NĐ-CP cùng với các giải pháp xử lý nghiêm các vi phạm của thị trường TPDN vừa qua sẽ giúp thị trường điều chỉnh hướng tới hoạt động hiệu quả hơn.
Bộ Tài chính cho biết: TPDN là một loại sản phẩm chứng khoán xác nhận nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi của DN đối với nhà đầu tư sở hữu trái phiếu. Nhà đầu tư trái phiếu sẽ được hưởng lãi suất và được DN trả lãi, gốc khi trái phiếu đến hạn. Thông lệ quốc tế và pháp luật của Việt Nam đều quy định TPDN do DN phát hành theo nguyên tắc tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm.
“Chúng tôi sẽ tích cực giám sát và đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư”, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc khẳng định.
Theo đó, Chính phủ, Bộ Tài chính đang hành động khẩn trương để đảm bảo tài sản cho nhà đầu tư. Phong tỏa tài khoản tài khoản hàng trăm công ty để bảo vệ và thu hồi tiền trái phiếu cho nhà đầu tư, đảm bảo trả nợ cho nhà đầu tư chính là một trong những phương án khẩn trương mà Chính phủ đang triển khai để mang đến môi trường đầu tư lành mạnh.
TPDN không phải là sản phẩm tiền gửi tiết kiệm ngân hàng. Trái phiếu thường có độ rủi ro cao hơn các sản phẩm tiết kiệm ngân hàng và phần chênh lệch cao hơn so với lãi suất tiết kiệm chính là rủi ro mà nhà đầu tư chấp nhận khi mua TPDN. Với đặc điểm trên, nhà đầu tư có trách nhiệm tự đánh giá mức độ rủi ro trong việc đầu tư trái phiếu, hạn chế về giao dịch trái phiếu được đầu tư và tự chịu trách nhiệm về quyết định đầu tư của mình.
Thời gian qua, thị trường TPDN trong nước đã từng bước phát triển để trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho các DN và nền kinh tế, qua đó hỗ trợ giảm áp lực lên kênh tín dụng ngân hàng.
Trong quá trình phát triển, thị trường đã phát sinh những rủi ro tiềm ẩn, các cơ quan quản lý và Bộ Tài chính đã theo sát diễn biến thị trường để hoàn thiện chính sách. Theo đó, khung pháp lý về chào bán và giao dịch TPDN đã được Quốc hội, Chính phủ quan tâm ban hành đầy đủ từ cấp luật, nghị định đến các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính. Tại Luật Chứng khoán, Luật DN, có 2 loại trái phiếu là trái phiếu phát hành ra công chúng và trái phiếu phát hành riêng lẻ.
Tại Nghị quyết 143, Chính phủ yêu cầu Bộ Tài chính tập trung triển khai thực hiện Nghị định số 65/2022/NĐ-CP ngày 16/9/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế; rà soát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, ổn định thị trường trái phiếu doanh nghiệp, báo cáo Chính phủ để sửa đổi (nếu cần thiết). Giao Phó Thủ tướng Lê Minh Khái chỉ đạo xử lý.
Bộ Tài chính chịu trách nhiệm đưa ra giải pháp xử lý kịp thời các khó khăn liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp trong ngắn hạn và thúc đẩy thị trường phát triển lành mạnh trong trung, dài hạn.
Với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chính phủ yêu cầu phải chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, chắc chắn, chủ động, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và các chính sách khác.
Chính phủ yêu cầu Ngân hàng nhà nước phải cung cấp đủ vốn tín dụng cho nền kinh tế, tập trung vào sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Kịp thời nắm tình hình, có giải pháp phù hợp hỗ trợ, chỉ đạo các ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu vốn cho thương nhân nhập khẩu xăng dầu, than, góp phần tháo gỡ khó khăn, bảo đảm an ninh năng lượng.
Tăng cường công tác thông tin, tuyền truyền, ổn định thị trường tiền tệ, củng cố niềm tin thị trường, tâm lý của nhà đầu tư, người dân và doanh nghiệp.
Tổng Hợp