Tỷ lệ bao phủ nợ xấu được dùng để đánh giá khả năng phòng thủ của ngân hàng trước những rủi ro liên quan đến nợ xấu. Vì vậy ngân hàng nào có tỷ lệ bao phủ nợ xấu càng cao thì rủi ro càng thấp và số dự phòng này có thể được hoàn nhập khi ngân hàng thu hồi được nợ xấu.
Việc tăng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trong ngắn hạn sẽ ảnh hưởng xấu tới lợi nhuận ngân hàng và ngược lại giảm trích lập dự phòng sẽ làm bức tranh lợi nhuận nhìn có vẻ sáng sủa hơn về ngắn hạn. Nhưng về dài hạn, có thể lợi nhuận chỉ là ảo khi “ăn” vào trích lập dự phòng rủi ro.
Theo quy định tại Thông tư 03 của NHNN về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, các ngân hàng có thể lựa chọn phương án trích lập dự phòng rủi ro với mức tối thiểu 30% trong năm 2021. 70% còn lại có thể trích lập tiếp vào các năm 2022, 2023. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng lựa chọn trích lập phần lớn hoặc toàn bộ dự phòng rủi ro cho các khoản vay đã quá hạn thay vì áp dụng Thông tư 03. Lựa chọn này có thể ảnh hưởng tới lợi nhuận ngân hàng trong ngắn hạn nhưng về dài hạn thì lại có lợi hơn so với nhóm còn lại.
Việc tăng mạnh trích lập dự phòng cho thấy các ngân hàng đang thận trọng hơn với nợ xấu. Lãnh đạo Vietcombank cho biết nhà băng này sẽ là đơn vị đầu tiên hoàn thành trích lập nợ tái cơ cấu mà không cần tới 3 năm như Thông tư 03. Đây cũng là ngân hàng có tỷ lệ bao nợ xấu lớn nhất với 350%. Một số ngân hàng tư nhân cũng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu khá cao như: Techcombank là 259%, MB là 236%, TPBank là 144%. VPBank là trường hợp cá biệt, có quy mô tài sản lớn, tỷ lệ nợ xấu cao nhưng tỷ lệ bao nợ xấu lại rất thấp, thuộc nhóm 5 ngân hàng có tỷ lệ bao nợ xấu thấp nhất.
Các ngân hàng có quy mô vốn nhỏ, có mức trích lập dự phòng rủi ro vốn thấp lại tiếp tục giảm trong nửa đầu năm 2021 như BacABank, Bản Việt, VietABank, NCB. Đây đều là những ngân hàng dẫn đầu trong bảng tăng trưởng lợi nhuận trước thuế 6 tháng đầu năm như: NCB, Bản Việt đều có mức tăng trưởng lợi nhuận trước thuế 6 tháng lần lượt là 400% và 440%, Kienlongbank là 400%, MSB là 200%. Tuy nhiên, cũng có một số ngân hàng nhỏ như Saigonbank, SeABank, Eximbank, PGBank đã tỏ ra thận trọng hơn với nợ xấu khi tăng mạnh trích lập dự phòng trong nửa đầu năm 2021 so với cùng kỳ 2020. Nhưng dù có tăng mạnh trích lập dự phòng thì tỷ lệ bao phủ nợ xấu của nhóm này vẫn rất thấp như PGBank tỷ lệ bao phủ nợ xấu chỉ 33%; Bản Việt là 44%, VietBank là 53%, Saigonbank là 53%…
Quan sát BCTC của 27 ngân hàng niêm yết có thể thấy tỷ lệ nợ xấu nội bảng tính đến 30/6/2021 ở đa số các nhà băng đều giảm so với cuối năm 2020. Nhiều ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu rất thấp Techcombank, MB, Vietcombank hay VIB. Đây đều là những ngân hàng được thị trường đánh giá cao về chất lượng tài sản trong vài năm trở lại đây.
Việc Techcombank và MB có tỷ lệ nợ xấu thấp hơn cả Vietcombank là một tín hiệu mới, cho thấy nhóm ngân hàng thương mại tư nhân đã đặt chú trọng nhiều hơn vào quản trị rủi ro. Một số ngân hàng thương mại tư nhân khác như TPBank, HDB, Lienvietpostbank cũng có tỷ lệ nợ xấu tính đến 30/6/2021 khá thấp, chỉ từ 1,1-1,3%. Đáng chú ý, một số ngân hàng từng có tỷ lệ nợ xấu ở diện cảnh báo, vượt quy định của NHNN như Kienlongbank, NCB đều đã giảm tỷ lệ nợ xấu xuống khá thấp lần lượt là 1,08% và 1,4%. Điều này đến từ việc đẩy mạnh quá trình xử lý tài sản đảm bảo, xử lý nợ xấu của các nhà băng.
Các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao nửa đầu năm 2021 là ABBank (2,3%), PGBank (2,7%), Bản Việt (2,8%) hay VPBank (3,4%) dù mức tăng trưởng tín dụng của nhóm này đều khá cao như Bản Việt là 11,6%, VPBank là 6,8%, ABBank là 5,6%, PGBank là 2,4%. Đáng chú ý, tính đến 30/6/2021, nợ xấu nhóm 4, 5 của một vài đơn vị tăng mạnh so với cuối năm 2020. Điều này có thể đến từ sự khác biệt trong áp dụng Thông tư 03 của NHNN về cơ cấu lại nợ, lựa chọn tỷ lệ trích lập dự phòng với dư nợ được tái cơ cấu. Một số ngân hàng lớn tăng mạnh nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) như Vietinbank tăng tới 103% và chiếm tới trên 80% tổng nợ xấu của ngân hàng; Vietcombank cũng tăng tới 19%, chiếm 75% tổng nợ xấu; MB tăng 145%, chiếm 50% tổng nợ xấu.
Ngoài ra, một số ngân hàng thương mại có quy mô tài sản nhỏ hơn nhưng nợ nhóm 4,5 tăng khá cao như: SHB nợ nhóm 5 tăng 29%; HDBank nợ nhóm 5 tăng 31%; ABBank nợ nhóm 5 tăng 40% hay NamABank nợ xấu nhóm 5 cũng tăng tới 100%; PGBank nợ nhóm 4 tăng 100%; Vietbank nợ nhóm 4 tăng 100%. Tuy tỷ lệ nợ xấu giảm nhưng đa phần các ngân hàng đều tăng mạnh trích lập dự phòng trong nửa đầu năm. Các ngân hàng có quy mô tài sản lớn, dẫn đầu hệ thống có xu hướng tăng mạnh trích lập dự phòng.
Tỷ lệ nợ xấu giảm nhưng hầu hết các ngân hàng đều tỏ ra thận trọng khi tăng mạnh trích lập dự phòng. Tuy nhiên, đáng chú ý, một vài ngân hàng nhỏ báo lợi nhuận tăng bằng lần cũng lại là những nhà băng giảm trích lập dự phòng rủi ro.
Tĩnh Kiên