Ngân hàng Nhà nước nhấn mạnh, việc xử lý tài sản bảo đảm phải được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận của các bên; đồng thời, phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục quy định…Ngân hàng Nhà nước không đồng ý việc xử lý không qua toà án.
Một số ý kiến được Ngân hàng Nhà nước tiếp thu một phần gồm: bổ sung các vướng mắc đối với các khoản vay ngoài tiêu dùng, các sản phẩm tín dụng khác (LC, bảo lãnh…); bổ sung về việc trường hợp có các tài sản nằm trên, nằm trong tài sản bảo đảm nhưng không thuộc tài sản bảo đảm mà bên bảo đảm không di dời trong thời hạn công khai thông tin thì bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ và xử lý đối với tài sản bảo đảm.
Đối với trường hợp khi thu giữ có các tài sản khác không phải tài sản bảo đảm mà bên bảo đảm không di dời thì bên nhận bảo đảm có thể di dời, chi phí di dời do chủ tài sản chịu, tổ chức tín dụng không phải chịu trách nhiệm đối với các hư hỏng, thiệt hại do hao mòn tự nhiên hoặc phát sinh trong quá trình di dời, quản lý tài sản. Tổ chức tín dụng được thu giữ các tài sản này kèm theo việc thu giữ tài sản bảo đảm.
Đặc biệt, với ý kiến góp ý của Bộ Nội vụ và Bộ Tài nguyên Môi trường, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp thu bổ sung vào dự thảo Luật như: bổ sung thêm nội dung đánh giá về nguồn lực trong hồ sơ; bổ sung danh mục các luật hiện hành cần rà soát sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua (Luật Đất đai, Luật thi hành án dân sự…); hay sửa đổi Điều 132 theo hướng trường hợp xử lý tài sản bảo đảm là nợ xấu thì tổ chức tín dụng được nhận chính tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất mà không phụ thuộc vào mục đích sử dụng sau khi nhận tài sản bảo đảm, trên cơ sở đó làm căn cứ chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức tín dụng. Cần có quy định cụ thể thời gian tổ chức tín dụng phải bán tài sản sau khi được chứng nhận quyền sử dụng đất tránh tình trạng nợ đọng vốn, làm ảnh hưởng đến các tổ chức tín dụng.
Theo Ngân hàng Nhà nước, có một số ngân hàng đề nghị quy định hợp đồng bảo đảm đã qua thủ tục công chứng, đăng ký thế chấp thì tổ chức tín dụng có quyền được xử lý tài sản bảo đảm luôn nếu khách hàng có các dấu hiệu cần phải xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại hợp đồng bảo đảm và hợp đồng tín dụng mà không cần phải qua thủ tục khởi kiện tại tòa án.
Với kiến nghị trên, Ngân hàng Nhà nước không đồng ý. Bởi lẽ, theo quy định, một cơ quan chuyên trách thực hiện xử lý tài sản bảo đảm (có thể giao cho Cơ quan Thi hành dân sự, Thừa phát lại hoặc một cơ quan chuyên môn khác) mà không cần bản án/quyết định của Tòa án, chỉ cần căn cứ vào hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm (đã qua công chứng, đăng ký thế chấp).
Cơ quan chuyên trách này có quyền cưỡng chế, thu giữ, phát mại tài sản bảo đảm mà không cần bản án. Đồng thời, quy định việc tổ chức tín dụng trả phí/chi phí cho cơ quan chuyên trách này thực hiện việc xử lý tài sản bảo đảm phù hợp thực tế để có thể thực hiện được công việc.
Quy định các điều kiện để tổ chức tín dụng nhận chính tài sản bảo đảm để thu nợ. Quy định cơ quan đăng ký sở hữu có trách nhiệm phải thực hiện thủ tục chuyển tên cho người mua tài sản bảo đảm hoặc chuyển tên cho tổ chức tín dụng trong trường hợp nhận tài sản bảo đảm để trừ nợ theo yêu cầu của tổ chức tín dụng mà không cần sự chú ý của chủ sở hữu tài sản.
Lý giải thêm, Ngân hàng Nhà nước nhấn mạnh, việc xử lý tài sản bảo đảm phải được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận của các bên; đồng thời, phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục quy định. Mặt khác, đề xuất này nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi).
Ngoài ra, cơ quan soạn thảo không đồng ý với đề xuất bổ sung chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của ngân hàng trong việc thực hiện chuỗi cung ứng dịch vụ thanh toán, làm rõ quyền hạn và trách nhiệm của ngân hàng đối với các trung gian thanh toán trong việc xử lý các giao dịch thanh toán. Bổ sung thêm chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của ngân hàng trong việc xử lý các giao dịch nghi ngờ là bất hợp pháp. Bổ sung thêm chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của ngân hàng trong việc dừng/tạm dừng cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng đối với các đối tượng khách hàng nghi ngờ có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
“Các đề xuất này không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật, sẽ xem xét quy định ở các văn bản dưới Luật, các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước”, cơ quan soạn thảo nhấn mạnh.
Tổng Hợp