Lẽ thường, sau khi phải đối mặt với làn sóng Covid-19 lần thứ tư với cường độ tác động rất mạnh, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng phải tăng lên. Tuy nhiên, số liệu từ 26 ngân hàng thương mại cho thấy, tỷ lệ nợ xấu nội bảng lại… giảm, từ mức 1,41% cuối năm 2020 xuống 1,34% cuối năm 2021.
Chi tiết hơn, nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) tăng 60%, chiếm 0,4% tổng dư nợ; nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) tăng 71%, chiếm 0,37% tổng dư nợ; nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) giảm 25%, chiếm 0,57% tổng dư nợ.
Hiện tượng lạ này không khó hiểu, bởi lượng lớn nợ xấu đang ở dạng tiềm ẩn, đặc biệt là tiềm ẩn trong các khoản nợ đang được cơ cấu lại theo Thông tư 14/2021/TT-NHNN liên quan đến khách hàng chịu ảnh hưởng của Covid-19.
Các ngân hàng cũng không chủ quan. Trên cơ sở nguồn thu tăng trưởng tốt và kiểm soát, tối ưu chi phí, các ngân hàng trong năm 2021 có nguồn lực khá lớn để tăng mạnh trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, qua đó, một mặt dùng nguồn dự phòng để xóa nợ xấu, mặt khác gia tăng “bộ đệm” dự phòng rủi ro tín dụng.
Thống kê với 26 ngân hàng thương mại cho thấy, tổng dự phòng rủi ro tín dụng đã tăng tới 58% trong năm 2021. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu theo đó tăng rất mạnh từ 101% cuối năm 2020 lên 146% cuối năm 2021. Như vậy, các ngân hàng đã chuẩn bị trước nguồn lực để xử lý không chỉ các khoản nợ xấu nội bảng mà còn cả các khoản nợ xấu tiềm ẩn trong các khoản nợ được tái cơ cấu để không bị “sốc” nếu trong tương lai, Ngân hàng Nhà nước dừng cơ chế tái cơ cấu trên trong bối cảnh nền kinh tế đã bước sang trạng thái “bình thường mới”, sống chung với Covid-19.
Đây là tín hiệu tích cực xét trên góc nhìn toàn cảnh. Tuy nhiên đi sâu hơn, không phải ngân hàng nào cũng tăng mạnh dự phòng rủi ro tín dụng. Càng nghịch lý hơn khi các ngân hàng vốn dĩ đã có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao, ví như có “bộ đệm” dày dặn phòng ngừa rủi ro nợ xấu, lại rất tích cực tăng cường trích lập dự phòng; trong khi các ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp lại có phần “thờ ơ” với việc gia tăng trích lập dự phòng.
Có thể thấy rõ thực trạng này khi nhìn vào Techcombank, ACB, MB và VietinBank. Đây là 4 trong số 7 ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu trên trung bình.
Trong năm 2021, dự phòng rủi ro tín dụng của ACB, MB và VietinBank đều tăng gấp đôi; trong khi của Techcombank tăng 69%. Nhờ đó, tỷ lệ bao phủ nợ xấu của VietinBank tăng từ 131% lên 180%, của MB tăng từ 134% lên 268%, của ACB tăng từ 160% lên 209%.
Trên thực tế, ACB là ngân hàng chịu ảnh hưởng khá tiêu cực bởi làn sóng Covid-19 lần thứ tư do địa bàn hoạt động phần lớn tập trung ở TP. HCM và các tỉnh thành phía Nam. Mặc dù khách hàng dần hồi phục sau đợt cao điểm giãn cách nhưng kết thúc năm 2021, tổng dư nợ các khoản cho vay tái cơ cấu theo Thông tư 14 vẫn tăng 26,7% sau 3 tháng lên khoảng 17.000 tỷ đồng, tương đương 4,7% tổng dư nợ, trong đó 58% đến từ các khoản cho vay cá nhân và 36% từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các khoản vay này có tổng giá trị tài sản đảm bảo là 30,5 nghìn tỷ đồng và đã được trích lập dự phòng 2,3 nghìn tỷ đồng.
Theo phía ACB, tỷ lệ nợ xấu và các khoản vay tái cơ cấu có thể chuyển thành nợ xấu ước tính khoảng 3% vào cuối năm 2021 và có thể giảm xuống 2% trong thời gian tới. Với việc tăng cường trích lập dự phòng như trong năm vừa qua, có thể thấy không khó để ACB vượt qua hệ quả của dịch Covid-19, dù ngân hàng này từng chịu tác động rất nặng nề.
Riêng với Techcombank, tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm từ 171% xuống 163% do nợ xấu nội bảng của ngân hàng tăng khá mạnh (tăng 77%), nhưng cần khẳng định mức bao phủ này vẫn là cao. Đặc biệt, Techcombank đã trích lập dự phòng 100% đối với toàn bộ nợ tái cơ cấu theo Thông tư 14 (dư nợ tái cơ cấu khoảng 1.900 tỷ đồng, tương đương 0,5% tổng dư nợ), dù Ngân hàng Nhà nước cho phép trích lập dự phòng 30% trong năm đầu.
Trái lại, với các ngân hàng cỡ vừa và nhỏ như ABBank, VietABank, Eximbank, PGBank, dẫu cho tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức thấp, cuối năm 2020 đều chưa tới 54%, “sức khỏe” cũng như sức cạnh tranh thua xa các ngân hàng lớn, dễ bị tổn thương hơn, nhưng mức tăng dự phòng rủi ro tín dụng trong năm 2021 đều chưa tới 10%.
Sự phân hóa này dần dần sẽ kéo theo sự phân hóa về chất lượng tài sản và lợi nhuận giữa các ngân hàng trong tương lai, khi các thông tư hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 hết hiệu lực. Ngân hàng nào đã chuẩn bị tốt nguồn lực dự phòng rủi ro tín dụng sẽ tiếp tục tăng trưởng ổn định, trong khi đó, gánh nặng chi phí cũng như rủi ro tín dụng sẽ đè nặng lên các ngân hàng có “bộ đệm” dự phòng mỏng.
Trong khi đó, các ngân hàng tiếp tục chiến lược kiểm soát chặt chi phí hoạt động, cộng thêm lợi ích từ số hóa ngân hàng.
Tổng Hợp