Tình trạng khát vốn của các doanh nghiệp nói chung, bất động sản (BĐS) nói riêng dự báo sẽ tiếp tục căng thẳng vào năm 2023 do kênh huy động từ trái phiếu doanh nghiệp hiện đang bị tắc nghẽn.
Do đó, các doanh nghiệp sẽ phải phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Nhu cầu tín dụng ở mức cao trong khi hạn mức tín dụng vẫn bị kiểm soát bởi Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục gây áp lực lên lãi suất cho vay.
Một chuyên gia trong ngành cho hay, dự báo về lãi suất năm 2023 có thể lên mức từ 13-15%/năm, lãi suất cho vay sẽ từ 19-20%/năm. Hiện không ít công ty, đặc biệt là doanh nghiệp BĐS bị ảnh hưởng bởi không tiêu thụ được hàng, lãi suất vay ngân hàng quá cao nên khó trụ được, nợ xấu ngân hàng sẽ tăng nên các ngân hàng phải cần tăng lãi suất và các loại phí để bù vào.
Dự báo lãi suất sẽ tiếp tục căng thẳng trong nửa đầu năm 2023 và áp lực sẽ dần được giải toả trong 6 tháng cuối năm. Thị trường vẫn thiếu tính thanh khoản trong bối cảnh các doanh nghiệp đang khát vốn do kênh huy động từ trái phiếu đang bị tắc nghẽn.
Chia sẻ trên báo chí, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế nhận định, lãi suất thực cao như vậy cũng đồng nghĩa với việc làm xói mòn rất nhanh chóng nền tảng tài chính của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trên tất cả các lĩnh vực kể cả bất động sản đều gặp khó khăn. Đặc biệt là doanh nghiệp nhập khẩu, vừa lãi suất cao vừa “gánh” áp lực lớn từ tỷ giá hối đoái. Nếu tiếp tục tăng lãi suất, doanh nghiệp nào chịu đựng nổi?.
Còn ông Võ Hồng Thắng, Phó Giám đốc R&D DKRA Vietnam cho rằng, lãi suất tăng mạnh và leo thang từng ngày như hiện nay làm cho thị trường BĐS vốn đã khó khăn nay càng khó khăn hơn. Nếu trình trạng này tiếp tục kéo dài có thể đây sẽ là cú “knock out” thị trường sau đại dịch.
Việc lãi suất leo thang tác động rất lớn đến thị trường BĐS. Cụ thể, sức cầu thị trường giảm mạnh. Với lãi suất cho vay mua BĐS trên 12%/năm như hiện nay nhà đầu tư e dè, thận trọng hơn trong việc sử dụng đòn bẩy tài chính để đầu tư BĐS. Ngay cả việc nhiều nhà đầu tư có dòng thu nhập tốt muốn vay vốn ngân hàng để đầu tư tuy nhiên việc tiếp cận được nguồn vốn vay hiện nay cực kỳ khó khăn khi “room” tín dụng bị hạn chế.
Thứ hai, hiện tượng cắt lỗ diễn ra trên diện rộng. Trong những năm gần đây khi thị trường BĐS sôi động, lãi suất còn hấp dẫn, nhiều nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy tài chính không có khả năng trả nợ, chấp nhận cắt lỗ. Tuy nhiên, hiện nay thị trường đang chững lại, thanh khoản thị trường thứ cấp sụt giảm mạnh, nhiều nhà đầu tư vẫn đang kẹt hàng mặc dù giảm giá sâu.
“ Người bán kẹt vốn, cắt lỗ để bán thu hồi vốn. Người mua thấy lãi suất cao e ngại, nếu có nhà đầu tư chấp nhập lãi suất cao để vay lại khó tiếp cận nguồn vốn do hết “room”. Với vòn luẩn quẩn như hiện nay, việc thị trường rơi tự do trong thời gian đến điều hoàn toàn có thể xảy ra nếu không có những biện pháp kịp thời”, ông Thắng nhấn mạnh.
Nhiều chuyên gia nhận định, việc lãi suất gửi tiết kiệm của các ngân hàng liên tục tăng cũng khiến thị trường BĐS bị chia lửa. Nhiều nhà đầu tư chọn cách gửi tiết kiệm thay vì bỏ tiền vào BĐS. Điều này cũng là tác nhân
Có thể thấy bài toán lãi suất chắc chắn sẽ còn là vấn đề rất khó khăn trong năm 2023. Bà Dương Thuỳ Dung, Giám đốc cấp cao CBRE Việt Nam từng nhấn mạnh, thị trường BĐS năm 2023 được “giải toả” hay không tuỳ thuộc rất lớn vào câu chuyện nguồn vốn tín dụng. Đây chính là điểm nghẽn lớn nhất của thị trường BĐS hiện nay.
Năm 2022, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác đối mặt với nhiều thách thức từ điều kiện tài chính toàn cầu thắt chặt, xung đột địa chính trị và tình trạng suy giảm tăng trưởng tại một số nền kinh tế lớn hàng đầu như Mỹ, Trung Quốc…
Lạm phát cao là một trong những thách thức chính sách mà các Ngân hàng trung ương nói chung Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nói riêng đã và đang phải đối mặt hiện nay.
“Tâm lý kỳ vọng lạm phát ở Việt Nam cũng khá cao so với các nước trong khu vực; hay với vấn đề lãi suất, nếu giảm lãi suất hoặc giữ mặt bằng lãi suất ổn định trong khi lãi suất thế giới cao thì nhà đầu tư có xu hướng chuyển dịch về nơi lãi suất cao, khi đó sẽ áp lực đến tỷ giá, đồng VND sẽ mất giá…”, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, bà Nguyễn Thị Hồng nhận định.
Trong lịch sử mấy chục năm gần đây, lãi suất của hệ thống ngân hàng Việt Nam từng tăng lên rất cao. Đơn cử, thời kỳ chống siêu lạm phát 800% năm 1989-1991, lãi suất được ấn định 12%/tháng (144%/năm) để hút tiền về.
Giai đoạn 2011-2012, lạm phát cao quay lại, thanh khoản hệ thống ngân hàng bị đe dọa, lãi suất liên ngân hàng đẩy lên tới gần 40%/năm; huy động tới 18-22%/năm, cho vay tới 24-27%/năm.
Năm 2022, dưới áp lực của lạm phát và chính sách thắt chặt tiền tệ, mặt bằng lãi suất cao giờ đây lại có nguy cơ lặp lại. Càng về cuối năm, áp lực càng lớn. Tính đến cuối tháng 10.2022, tăng trưởng huy động mới chỉ đạt 4,8%, thấp hơn nhiều so với tăng trưởng tín dụng 11,5%.
“Nguồn vốn huy động suy yếu khiến trạng thái thanh khoản trở nên căng thẳng và mặt bằng lãi suất tăng lên. Lãi suất liên ngân hàng và lợi suất trái phiếu chính phủ tăng mạnh”, các chuyên gia của ACBS nhận định.
Giữa tháng 12, ABBANK công bố mức lãi suất cho kỳ hạn 13 tháng lên tới 11,5%. Hiện Saigon Bank áp dụng mức lãi suất 10,5% cho kỳ hạn 13 tháng. Mức lãi suất từ 9% trở lên đã phổ biến tại nhiều ngân hàng thương mại.
Trong năm 2022, Ngân hàng Nhà nước đã tăng lãi suất điều hành 2 lần, mỗi lần 1% đưa lãi suất về tương đương giai đoạn trước dịch.
“Để giữ cho VND không bị mất giá quá lớn, gây bất ổn vĩ mô, Ngân hàng Nhà nước đã tăng lãi suất để duy trì sức hấp dẫn của VND”, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Hà cho biết. Động thái này giúp hỗ trợ ổn định tỷ giá trong bối cảnh đồng USD tăng giá mạnh gây áp lực mất giá lên hầu hết các đồng tiền trên thế giới.
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho rằng mức tăng lãi suất 2 lần, mỗi lần 1% đưa lãi suất về tương đương giai đoạn trước dịch là phù hợp với xu hướng toàn cầu. Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương lớn như Fed đã tăng lãi suất 6 lần trong năm 2022 với tổng mức tăng là 3,75%, đưa lãi suất về gấp đôi mức trước dịch. Như vậy, lãi suất tăng là hợp lý để kiểm soát lạm phát và ổn định nguồn vốn cho hệ thống ngân hàng, hỗ trợ ổn định tỷ giá.
Ngày 5.12, Ngân hàng Nhà nước công bố nới room tín dụng thêm khoảng 1,5 – 2% cho toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Điều này tương đương với việc 240.000 tỉ đồng tín dụng vừa được cung ứng cho nền kinh tế.
“Tình trạng khát vốn của các doanh nghiệp dự báo sẽ tiếp tục căng thẳng do kênh huy động từ trái phiếu doanh nghiệp hiện đang bị tắc nghẽn. Do đó, các doanh nghiệp sẽ phải phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Nhu cầu tín dụng ở mức cao trong khi hạn mức tín dụng vẫn bị kiểm soát bởi Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục gây áp lực lên lãi suất cho vay”, chuyên gia ACBS nhận định.
Đồng quan điểm trên, chuyên gia VNDirect nhận định “lãi suất tiền gửi tiếp tục chịu áp lực tăng trong nửa đầu năm 2023”. Lý do chính là việc hạn chế thanh khoản trong bối cảnh khủng hoảng niềm tin trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Thêm vào đó, nhu cầu huy động vốn của các ngân hàng tăng mạnh để đảm bảo các chỉ tiêu an toàn vốn cũng như đáp ứng nhu cầu vay tăng cao của nền kinh tế.
Cuối cùng, tăng trưởng tiền gửi đã chậm hơn nhiều so với tăng trưởng tín dụng kể từ đầu năm 2022, do đó các ngân hàng phải tăng lãi suất huy động để thu hút thêm tiền gửi.
Dự báo về lãi suất năm 2023, dù một số chuyên gia nhận định với tình hình chạy đua huy động như hiện nay, lãi suất huy động có thể lên mức từ 13-15%/năm, lãi suất cho vay sẽ từ 19-20%/năm. Hiện không ít công ty, đặc biệt là doanh nghiệp BĐS bị ảnh hưởng bởi không tiêu thụ được hàng, lãi suất vay ngân hàng quá cao nên khó trụ được, nợ xấu ngân hàng sẽ tăng nên các ngân hàng phải cần tăng lãi suất và các loại phí để bù vào.
Tổng Hợp
(BizLive, CafeLand)