Dù Chính phủ đã đưa nhiều chính sách hỗ trợ cho DN trong năm qua như: Gói hỗ trợ 2% lãi suất; gói phục hồi kinh tế 350.000 tỷ đồng, hạ lãi suất vay… nhưng thực tế nhiều DN vẫn chưa thể tiếp cận.
Dư nợ tín dụng DNNVV phần lớn tập trung vào khu vực thương mại và dịch vụ (56,29%), công nghiệp và xây dựng (40,85%). Các ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước đang cho vay DNNVV chiếm 48,05%, khối ngân hàng thương mại cổ phần cho vay chiếm 47,43%, khối ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính và ngân hàng hợp tác xã tham gia cho vay 4,52%.
Theo bà Phạm Thị Thanh Huyền – chuyên gia chương trình tài trợ chuỗi cung ứng tại Việt Nam, DN luôn cần nguồn vốn lưu động nhưng có tới 70% DN khó hoặc không có khả năng tiếp cận nguồn tài chính chính thức. Lý do thường thấy là thiếu tài sản bảo đảm, DN thiếu minh bạch về tài chính kế toán; chưa có phương án kinh doanh; DN còn non trẻ…
“Một số ngân hàng cho biết, họ cho vay với DNNVV rất khó vì báo cáo tài chính của DN rất đa dạng. Cùng một DN nhưng họ có tới 2 báo cáo tài chính, một báo cáo nộp cho thuế, cái còn lại nộp cho NH. Thậm chí, báo cáo tài chính nộp ngân hàng, DN còn làm nhiều báo cáo tài chính khác nhau gửi cho ngân hàng khác nhau khi vay vốn. Đây là điều các ngân hàng rất quan ngại” – bà Thanh Huyền chia sẻ.
Tại Việt Nam, tỷ trọng cho vay bảo đảm là động sản chỉ từ 25-30%; 70% còn lại là khoản vay yêu cầu có tài sản đảm bảo là bất động sản. Trong khi trên thế giới, đối với các khoản vay có bảo đảm là động sản phần lớn là các khoản phải thu và hàng hóa lưu chuyển trong kinh doanh. Vì đây là 2 loại tài sản gần với tiền mặt nhất và là dòng luân chuyển của tiền mặt.
“Do đó, các NH cần phải đưa ra các sản phẩm tài chính có tính cải tiến và sáng tạo hơn để phù hợp cho các DNNVV. Chúng tôi vẫn khuyến nghị các ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng tại Việt Nam hãy tận dụng tài sản là hàng hóa và các khoản phải thu của DN làm tài sản bảo đảm. Đó chính là cách ngân hàng có thể kiểm soát được dòng tiền của DNNVV và giảm thiểu rủi ro lớn nhất khi cho vay” – bà Thanh Huyền nhấn mạnh.
Báo cáo từ IFC cho biết, trong 2 tháng đầu năm 2023, Việt Nam có 19.700 DN đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 164.700 tỷ đồng, tổng số lao động đăng ký là 119.600 lao động (giảm 3% về số DN, giảm 40,7% số vốn đăng ký, giảm 20,1% số lao động so với cùng kỳ).
18.200 DN quay trở lại hoạt động (giảm 18,6% so với cùng kỳ năm 2022); số DN tạm ngừng hoạt động có thời hạn là 38.800 DN (tăng 18,5% so với cùng kỳ năm trước). Có 9.400 DN ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể (tăng 5,8%); 3.200 DN hoàn tất thủ tục giải thể (giảm 1,6%). Bình quân một tháng có 25.700 DN rút khỏi thị trường.
Tại Hội nghị “Các giải pháp tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phục hồi, phát triển sản xuất kinh doanh” chiều 15/3, bà Hà Thu Giang – Vụ trưởng Vụ Tín dụng – Ngân hàng Nhà nước – cho biết, đến cuối năm 2022, dư nợ tín dụng đối với DNNVV tăng 8,28% so với cuối năm 2021, chiếm khoảng gần 19% tổng dư nợ tín dụng chung toàn nền kinh tế.
Theo bà Giang, mặc dù tín dụng đối với DNNVV là một trong 5 lĩnh vực ưu tiên cấp tín dụng và được NHNN triển khai nhiều giải pháp để hỗ trợ khơi thông, hướng dòng vốn tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên , kết quả tín dụng đối với DNNVV vừa qua đã đạt được những kết quả tích cực, quy mô vốn tín dụng ngày càng lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đó, vẫn còn có phản ánh DNNVV khó tiếp cận vốn ngân hàng và việc cho vay DNNVV vẫn còn khó khăn, vướng mắc.
Nguyên nhân khách quan từ bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước. Tình hình kinh tế thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, ẩn chứa nhiều yếu tố bất ổn, tác động đến sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động của DNNVV nói riêng.
Bà Giang cho rằng, về phía ngành ngân hàng, trong bối cảnh thực hiện cơ cấu lại hoạt động ngân hàng, các tổ chức tín dụng đang ngày càng đẩy mạnh áp dụng các chuẩn mực quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế, đòi hỏi ngày càng cao tính minh bạch về thông tin, tài chính, tài sản bảo đảm của khách hàng, do đó không thể thực hiện các giải pháp về “hạ chuẩn” điều kiện cấp tín dụng.
“DNNVV là một trong 5 lĩnh vực ưu tiên được áp dụng chính sách trần lãi suất cho vay ngắn hạn, do đó các DNNVV phải đáp ứng được điều kiện về tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh để được tiếp cận chính sách ưu tiên trần lãi suất theo quy định”, bà Giang nói.
Nhìn vào thực tế, bà Giang đánh giá, hiện đa số các DNNVV khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng là các doanh nghiệp mới thành lập trong thời gian qua, dù đã từng bước phục hồi sản xuất kinh doanh nhưng đến nay nhiều doanh nghiệp vẫn chưa đủ khả năng trả hết các khoản nợ đã được cơ cấu lại và khoản nợ đến hạn.
Bà Trịnh Thị Ngân – Trưởng ban cố vấn Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Hà Nội – thừa nhận thực tế nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa khi vay vốn ngân hàng thì không đủ chuẩn, thiếu minh bạch tài chính, phương án kinh doanh không khả thi. Đây là những hạn chế không thể sửa ngay, cần phải có thời gian bởi đa phần các doanh nghiệp này bắt nguồn từ hộ sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, kiến thức về nghiệp vụ tài chính còn hạn chế.
Bà Ngân kiến nghị, để tạo thuận lợi cho tiếp cận nguồn vốn thì các ngân hàng có thể linh hoạt cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay những gói tín dụng nhỏ.
Tổng Hợp
(Tiền Phong)