Trong tương lai, khi tuyến cao tốc Bắc – Nam do Nhà nước đầu tư hoàn thành đưa vào sử dụng và được triển khai thu phí thì số thu được sẽ rất lớn, có thể lên tới cả chục ngàn tỷ đồng. Đây là khoản tiền lớn để bảo trì các tuyến cao tốc hiện có tốt hơn cũng như đầu tư xây dựng thêm các tuyến cao tốc mới.
Thủ tướng giao Bộ Tài chính tổng hợp, tiếp thu, giải trình đầy đủ các ý kiến của các Bộ, cơ quan, ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp để rà soát, hoàn thiện hồ sơ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bảo đảm thống nhất với các nội dung dự án giao thông đường bộ (sửa đổi) Chính phủ đã báo cáo Quốc hội; báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước ngày 20/10/2020.
Chính phủ sẽ đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định thu phí dịch vụ sử dụng đường cao tốc thông qua trạm thu phí trên đường cao tốc do Nhà nước đầu tư theo quy định pháp luật về giá. Cụ thể, Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá sẽ được bổ sung dịch vụ sử dụng đường cao tốc theo hướng giao Bộ trưởng Bộ GTVT quy định giá tối đa dịch vụ sử dụng đường cao tốc đối với đường do Trung ương quản lý; UBND cấp tỉnh quy định giá tối đa dịch vụ sử dụng đường cao tốc đối với đường do địa phương quản lý.
Theo Bộ Tài chính, việc thu phí dịch vụ (theo cơ chế giá) sẽ đồng bộ về mức thu phí dịch vụ các dự án BOT liền kề; tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác đường cao tốc do Nhà nước đầu tư theo các hình thức chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn liên doanh… qua đó giúp thu hút nguồn lực xã hội đầu tư hạ tầng đường bộ.
Về mức giá, Bộ Tài chính và Bộ GTVT thống nhất dự kiến thu từ 1.000 – 1.500 đồng/xe/km (mức cụ thể sẽ được Bộ GTVT hoặc Chính phủ quyết định sau khi nghị quyết được thông qua). Thời gian dự kiến áp dụng ngay trong năm 2020.
Theo tờ trình của Bộ Tài chính, mạng lưới đường bộ Việt Nam đang khai thác dài 668.750 km. Trong đó, đường cao tốc có 16 tuyến, dài 968,7 km. Theo Quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, mạng đường bộ cao tốc sẽ gồm 21 tuyến với tổng chiều dài 6.411 km.
Như vậy, tỷ lệ tuyến đường cao tốc hiện có so với quy hoạch mới đạt khoảng 15%. Bên cạnh đó, đầu tư xây dựng đường cao tốc đòi hỏi lượng vốn rất lớn, trong khi nguồn lực nhà nước còn hạn chế.
Cụ thể, suất đầu tư đường cao tốc 4 làn khoảng 130 tỉ đồng/km, 6 làn khoảng 190 tỉ đồng. Đặc biệt, chi phí bảo trì đường cao tốc khoảng 830 triệu đồng/km/năm, trong khi nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí cho công tác quản lý, bảo trì hằng năm chỉ đáp ứng khoảng 35 – 40% nhu cầu tối thiểu, dẫn đến tình trạng chất lượng đường xuống cấp nhanh… Vì vậy, cần bổ sung quy định thu phí (hoặc giá) dịch vụ hoàn vốn đầu tư xây dựng đường cao tốc do nhà nước đầu tư.
Theo tính toán của Bộ GTVT trên cơ sở phân tích dữ liệu sử dụng 5 tuyến đường cao tốc hiện hành, kết quả lượng hóa chi phí vận hành và chi phí thời gian của phương tiện cho thấy, so với lưu thông tuyến trên quốc lộ song hành, phương tiện lưu thông trên các tuyến cao tốc sẽ được lợi bình quân theo xe đơn vị là 2.518 đồng/km/xe tiêu chuẩn. Như vậy, nếu phải nộp phí khoảng 1.000 đồng/km/xe tiêu chuẩn thì chủ phương tiện vẫn hưởng lợi khoảng 1.500 đồng/km.
Về tác động đối với ngân sách, Bộ Tài chính tính toán với tổng chiều dài 196 km (tổng chiều dài các tuyến cao tốc do nhà nước đầu tư tính đến nay), nếu thực hiện thu phí dịch vụ đường cao tốc với mức thu là 1.000 đồng/km/xe tiêu chuẩn thì dự kiến hằng năm sẽ thu được khoảng 2.142 tỉ đồng. Đây là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho việc đầu tư cải tạo hệ thống đường cao tốc hiện hành, cũng như bổ sung vốn đầu tư xây dựng tuyến đường cao tốc mới.
Thời gian tới, sau khi Luật Giao thông đường bộ sửa đổi này được thông qua thì nhà nước sẽ có một nguồn thu mới, vĩnh viễn: Thu phí tham gia giao thông trên đường cao tốc. Việc thu phí cao tốc vĩnh viễn không phải là vấn đề mà vấn đề là hoạt động thu phí phải được tính toán một cách khoa học và công bằng, quản lý phải minh bạch. Cụ thể, mức phí phải được giảm dần theo mức tăng của lưu lượng xe tham gia giao thông qua từng thời kỳ, chất lượng phải tương ứng với khoản thu, Thu-Chi cân đối; nghĩa là không vì lợi nhuận, chỉ thu đủ cho mục đích duy tu, bảo trì chất lượng sản phẩm.