Không có hành lang pháp lí kịp thời, Việt Nam sẽ gặp nhiều lúng túng khi các công ty fintech mở rộng phạm vi hoạt động. Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tiếp thu đầy đủ ý kiến…
Công nghệ tài chính (fintech) là việc áp dụng các công nghệ đổi mới, sáng tạo và hiện đại vào lĩnh vực tài chính – ngân hàng như dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, cho vay ngang hàng, quản lý tài sản… nhằm mang tới các dịch vụ tài chính minh bạch, hiệu quả và thuận tiện với chi phí thấp hơn so với các dịch vụ tài chính truyền thống.
Theo Ngân hàng Nhà nước, sự xuất hiện và phát triển với tốc độ nhanh chóng của fintech đã khiến các cơ quan quản lí của các quốc gia đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong công tác quản lí, giám sát do những rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố, rủi ro liên quan tới an ninh, an toàn, bảo mật thông tin, sử dụng trái phép thông tin cá nhân…
Do đó, nhiệm vụ đặt ra với các cơ quan quản lí là phải đảm bảo đồng thời mục tiêu hỗ trợ thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong khi vẫn phải duy trì sự ổn định, an toàn của thị trường tài chính và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Tại Việt Nam, các hoạt động của công ty cung ứng giải pháp fintech, cho vay ngang hàng (P2P lending), mô hình thanh toán mới, chuyển tiền xuyên biên giới, chia sẻ dữ liệu người dùng qua giao diện lập trình ứng dụng mở (Open APIs)… đều chưa có quy định pháp lí cụ thể để điều chỉnh.
Những ví dụ từ trường hợp Uber, Grab trong thị trường vận tải trong thời gian qua là bài học kinh nghiệm cho ngành ngân hàng trong việc ứng phó với những đổi thay nhanh chóng của công nghệ. Nếu không có hành lang pháp lí kịp thời sẽ gặp nhiều lúng túng khi các công ty fintech mở rộng phạm vi hoạt động.
Theo Chính phủ, xuất phát từ thực tiễn phát triển của hệ sinh thái fintech tại Việt Nam và thông lệ quản lý lĩnh vực fintech trên thế giới, trước mắt việc thiết lập cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động fintech trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam thông qua ban hành nghị định là hết sức cấp bách và cần thiết.