Theo Bloomberg, các thị trường mới nổi đang chịu áp lực từ nợ lên cao, tăng trưởng chậm và lợi suất tăng. Phân tích của Bloomberg cho thấy rủi ro về khủng hoảng nợ đang bị nghiêm trọng hóa quá mức.
Những quốc gia có rủi ro lớn nhất chỉ đóng góp khoảng 3% cho nền kinh tế toàn cầu. Nhiều nước như Pakistan hay Ghana đã nhận được hoặc đang tìm kiếm sự trợ giúp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Những yếu tố trên sẽ giúp hạn chế rủi ro lan rộng.
Các nền kinh tế lớn hơn, chẳng hạn như Brazil, Ấn Độ, Indonesia hay Mexico không gặp rủi ro, ngay cả khi áp lực tăng lên. Tuy vậy, Thổ Nhĩ Kỳ không nằm trong nhóm các quốc gia may mắn trên.
Theo Bloomberg, có 5 yếu tố khiến rủi ro nợ của các thị trường mới nổi tăng lên trong năm 2022.
Thứ nhất, lượng vốn vay tại các nền kinh tế đã tăng từ hơn 1/2 tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 2019 lên gần 2/3 trong năm nay. Đại dịch COVID đã dẫn đến sự gia tăng trong chi tiêu công và giảm thu thuế.
Thứ hai, lãi suất toàn cầu đang tăng với tốc độ chưa từng thấy trong 4 thập kỷ. Động thái thắt chặt của các ngân hàng trung ương sẽ khiến việc thanh toán các khoản nợ bằng ngoại tệ trở nên nặng nề hơn.
Thứ ba, đồng nội tệ yếu đi ở các thị trường mới nổi đang làm tăng thêm chi phí nợ nước ngoài. Hầu hết các đồng tiền đều đã mất giá ở mức hai con số so với USD kể từ cuối năm 2020. Các chính phủ nhận doanh thu bằng nội tệ, và trả nợ bằng ngoại tệ sẽ cảm thấy khó khăn.
Thứ tư, các ngân hàng trung ương tại một số nước đang phát triển đã nâng lãi suất với tốc độ còn nhanh hơn Mỹ. Động thái này có thế chế ngự lạm phát và giảm sự suy yếu của đồng tiền, đồng thời làm tăng gánh nặng nợ công.
Sự hoảng loạn dường như đang trở nên thái quá. Mô hình của Bloomberg cho thấy rủi ro vỡ nợ chỉ tập trung ở một số nền kinh tế nhỏ. Các quốc gia đang phát triển lớn nhiều khả năng sẽ tránh được vỡ nợ, ngay cả khi áp lực lên thị trường cận biên tăng lên.
Mô hình của Bloomberg đánh giá rủi ro vỡ nợ của 41 thị trường mới nổi trong vòng 12 tháng tới. Trong số này, chỉ có 11 nước có nguy cơ vỡ nợ lớn hơn 10%, bao gồm Argentina, Ecuador, và Ethiopia.
Bloomberg đã kết hợp những yếu tố như nợ, lãi suất, tỷ giá hối đoái với những tín hiệu khác như điều kiện tài chính để ước tính xác suất vỡ nợ.
Kết quả là, ngoại trừ những nước đã vỡ nợ rồi, chỉ có 11 nền kinh tế khác chịu xác suất mất khả năng thanh toán ở mức lớn hơn 10%. Những quốc gia trên kết hợp các yếu tố như có nợ vượt quá 60% GDP, thiếu sự hỗ trợ từ thị trường tài chính, và mức lợi suất của khoản nợ USD vượt quá 20%.
Ngược lại, Indonesia, Philippines và Việt Nam ít có khả năng vỡ nợ nhất. Nợ của những quốc gia này hầu hết ở mức dưới 45% GDP. Đây cũng là những nước có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, hầu hết trên 5%/năm và được tiếp cận các khoản vay với lãi suất tương đối thấp.
Phân tích của Bloomberg không nắm bắt được hết tất cả các yếu tố, chẳng hạn như chính trị. Yếu tố này có thể khiến các quốc gia ưu tiên nhập khẩu hàng hóa thiết yếu như thực phẩm, nhiên liệu và thuốc men, thay vì trả nợ. Các yếu tố pháp lý cũng có thể khiến một số quốc gia có khả năng tài chính mà vẫn không thể thanh toán nợ, như trường hợp của Nga.
Kết quả Bloomberg phù hợp với dữ liệu từ thị trường tài chính. Tuy vậy, cũng có một số điểm khác biệt đáng chú ý. Một số nước Nam Mỹ, chẳng hạn như Uruguay và Peru, có lịch sử dễ bị tổn thương trước các cuộc khủng hoảng ở quốc gia láng giềng như Argentina và Ecuador. Những mối lên kết kinh tế này dẫn đến khả năng vỡ nợ cao hơn so với những gì mà thị trường tài chính gợi ý.
Một ngoại lệ khác là Ai Cập. Mô hình cho thấy rủi ro nợ của quốc gia Bắc Phi này đang thấp hơn so với kỳ vọng thị trường.
Tổng Hợp