NHNN đang lấy ý kiến góp ý cho Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số Điều của Thông tư số 09/2015 quy định về hoạt động mua, bán nợ của TCTD. Nợ xấu đang là nỗi lo chung, dù trên bảng cân đối tài sản của các TCTD chưa thể phản ánh đầy đủ do các TCTD vẫn đang giữ nguyên nhóm nợ…
Nhìn chung, nợ xấu đang là nỗi lo chung, dù trên bảng cân đối tài sản của các TCTD chưa thể phản ánh đầy đủ do các TCTD vẫn đang giữ nguyên nhóm nợ, trích lập dự phòng giãn theo lộ trình của Thông tư 01/2020 và các Thông tư sửa đổi Thông tư 01.
Dự thảo Thông tư nói trên đề cập trong thời gian gần đây có hiện tượng các TCTD thực hiện bán nợ cho bên mua nợ không phải là TCTD và được thanh toán chậm tiền mua nợ. Hoạt động này có thể dẫn đến việc phản ánh thiếu khách quan về tình trạng của các khoản nợ cấp tín dụng tại các TCTD, ngân hàng cho vay với các tổ chức.
NHNN khó đánh giá hết về nợ xấu của ngân hàng đó và hệ thống. Chưa kể, có thể nảy sinh trường hợp chính ngân hàng cho vay đối tác, tổ chức liên quan để mua nợ, dẫn đến dòng tiền đi vòng, nợ xấu vẫn còn nguyên nhưng ngân hàng không phải trích lập dự phòng rủi ro. Còn nhớ đã từng có những rủi ro tương tự xảy ra trong quá khứ, khiến hệ thống mất rất nhiều thời gian để tái cơ cấu, xử lý nợ. Năm 2015, Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia đã phải lên tiếng cảnh báo về lãi dự thu từ các khoản nợ cơ cấu lại tăng vọt trên toàn hệ thống. Không quá xa, năm 2019, NHNN cũng đã yêu cầu các TCTD nghiêm túc thực hiện dự thu lãi phù hợp với thực trạng các khoản nợ.
Theo ông Nguyễn Tuấn Anh, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế- NHNN, trong quý III vừa qua, công tác tái cơ cấu hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu tiếp tục được đẩy mạnh. Tuy nhiên, do tác động của COVID-19, tỷ lệ nợ xấu nội bảng có xu hướng tăng. Trước đó, báo cáo trước Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh khẳng định, nợ xấu nội bảng và nợ xấu tiềm ẩn cuối năm nay dự kiến sẽ ở mức từ 7,1% – 7,7% lên xấp xỉ 8%. “NHNN đánh giá độ trễ sẽ còn tác động cả sang năm 2022 nên ngành ngân hàng sẽ vẫn gặp rất nhiều khó khăn”, Phó Thống đốc NHNN nói.
Đến cuối tháng 6/2021, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống là 1,73%, giảm so với thời điểm trước khi triển khai nghị quyết số 42. Tính từ cuối năm 2017 đến 30/6/2021, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 677 nghìn tỷ đồng nợ xấu nội bảng. Trong đó, nợ xấu do các TCTD tự xử lý là 554,6 nghìn tỷ đồng (chiếm 81,92%); nợ xấu bán cho VAMC là 110,3 nghìn tỷ đồng (chiếm 16,29%); nợ xấu bán cho tổ chức, cá nhân khác là 12,1 nghìn tỷ đồng (chiếm 1,79%).
Tính riêng từ 30/6/2020 đến 30/6/2021, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 188,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu nội bảng. Đến cuối tháng 6/2021, tổng nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và các khoản tiềm ẩn thành nợ xấu tăng 2,8% so với cuối năm 2020 và có số dư 384,96 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 3,66% so với tổng dư nợ cho vay, đầu tư.
Nếu tính thêm các khoản nợ được cơ cấu và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 01 (đã sửa đổi, bổ sung) có nguy cơ chuyển thành nợ xấu do ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19 thì tỷ lệ này là 7,21% (cuối năm 2020 là 5,08%). Theo báo cáo của các TCTD, tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 của toàn hệ thống các TCTD đến 30/6/2021 là 425,5 nghìn tỷ đồng, giảm 3,4% so với cuối năm 2020. Lũy kế từ 15/8/2017 đến 30/6/2021, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 354,6 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42.
Trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng là 183,0 nghìn tỷ đồng (chiếm 51,61% tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã xử lý). Xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán xác định theo Nghị quyết số 42 là 93,5 nghìn tỷ đồng (chiếm 26,37% tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã xử lý. Xử lý các khoản nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt (TPĐB) là 78,1 nghìn tỷ đồng (chiếm 22,02% tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã xử lý). Tính riêng từ thời điểm 30/6/2020 đến thời điểm 30/6/2021, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 55,0 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42.
Tổng số nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 được xử lý từ 15/8/2017 đến 30/6/2021 đạt trung bình khoảng 5,95 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn 2,43 nghìn tỷ đồng/tháng so với kết quả xử lý nợ xấu trung bình tại thời điểm trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (trung bình từ năm 2012 – 2017, hệ thống xử lý được khoảng 3,52 nghìn tỷ đồng/tháng). Trước khi có Nghị quyết số 42, nợ xấu của toàn hệ thống các TCTD chủ yếu được xử lý bằng dự phòng rủi ro, các biện pháp xử lý nợ xấu thông qua xử lý TSBĐ và khách hàng trả nợ còn chưa cao. Tuy nhiên, kể từ khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực, xử lý nợ xấu nội bảng thông qua hình thức khách hàng trả nợ tăng cao.
Tĩnh Kiên
(Tổng Hợp)