Dự báo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy, đến cuối năm 2021, có khả năng tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của toàn hệ thống sẽ cao hơn…
Trong báo cáo mới đây, Ngân hàng Thế giới (Word Bank) cho rằng, Covid-19 bùng phát trên diện rộng đã khiến nhiều doanh nghiệp ở các thành phố lớn và một số khu công nghiệp phải đóng cửa phòng dịch. Vì vậy, cơ quan phụ trách chính sách tiền tệ cần cảnh giác với rủi ro gia tăng ở khu vực tài chính, cụ thể là quan tâm đến nợ xấu.
Thực tế cũng cho thấy, tỷ lệ bao phủ nợ xấu của hầu hết ngân hàng tăng trong nửa đầu năm và lên mức khá cao. Cụ thể, tại Vietcombank, tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 352%, tăng đến 98% so với cùng kỳ, cao nhất ngành. Techcombank, MB và ACB cũng là những ngân hàng đang theo đuổi chiến lược thận trọng với tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao, lần lượt là 259%, 237% và 208% đến cuối tháng 6/2021. Thế nhưng, không phải ngân hàng nào cũng có tỷ lệ dự phòng bao phủ nợ xấu cao. Tại PGBank, tỷ lệ bao phủ nợ xấu đến cuối tháng 6/2021 là 33%, giảm 3% so cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu của Viet Capital Bank đến cuối quý II là 45%, giảm 7% so cùng kỳ. Thậm chí, VPBank có tỷ lệ bao phủ nợ xấu đến tháng 6/2021 chỉ 45%, giảm 1% so với cùng kỳ năm trước.
Theo SSI Research, nợ xấu tiềm ẩn sẽ tăng mạnh hơn trong nửa cuối năm 2021 cũng như nửa đầu năm tới, chi phí dự phòng cho các khoản nợ xấu này sẽ tăng dần cho cả năm 2021 và năm 2022. Các khoản nợ xấu mới từ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh sẽ đặt ra những thách thức hơn nữa về vốn cho các ngân hàng. Với mỗi 1% nợ xấu tăng thêm, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) ước tính giảm từ 40 đến 80 điểm cơ bản.
Theo thông tin từ Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, các khoản nợ xấu tiềm ẩn còn ở mức cao, tổng nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng là 483.200 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ 4,71%. Thống kê số liệu từ báo cáo tài chính quý II/2021 của gần 30 ngân hàng cũng cho thấy, tổng số dư nợ xấu các nhà băng đến thời điểm ngày 30/6/2021 đã tăng 4,5% so với cuối năm trước, đạt gần 125.000 tỷ đồng. Trong 4 ngân hàng có vốn nhà nước, chỉ BIDV có số dư nợ xấu giảm nhẹ 1,1%; còn VietinBank, Vietcombank, Agribank ghi nhận mức tăng trưởng nợ xấu lần lượt là 52%, 31,3% và 13,5%. Trong khi đó, các ngân hàng ACB, SHB, MSB, ABBank… đều ghi nhận mức tăng trưởng nợ xấu 2 con số trong 6 tháng qua.
Dự báo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy, đến cuối năm 2021, có khả năng tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của toàn hệ thống sẽ cao hơn so với mức đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại Tờ trình số 08/TTr-NHNN ngày 24/2/2021. Theo đó, tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn hệ thống ước tính ở mức từ 2-3%; tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của toàn hệ thống ước tính ở mức 4-4,5%.
Theo cơ chế hạch toán thu nhập lãi, ngân hàng được phép ghi nhận tiền lãi theo dự kiến ghi trên hợp đồng tín dụng đối với nợ nhóm 1 và nợ nhóm 2. Theo đó, đầu kỳ thu lãi, nhân viên tiến hành hạch toán ghi nhận tiền lãi chứ không căn cứ tiền lãi khách hàng sẽ thực trả bao nhiêu. Hàng quý ngân hàng xác định lợi nhuận dựa trên kết quả thu nhập dự thu này. Chỉ đến cuối năm, ngân hàng mới xác định thực thu lãi, mà thực tế tổng dự thu lãi bao giờ cũng cao hơn tổng thu lãi thực. Cho nên mới có câu chuyện khách hàng có “chết” thì ngân hàng vẫn sống khỏe là chỗ đó.
Cơ chế cơ cấu lại nợ theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN, rồi Thông tư 03/2021/TT-NHNN sửa đổi và từ ngày 7/9 đến nay là Thông tư 14/2021/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước, mục đích hỗ trợ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nhưng đó cũng là cơ hội để ngân hàng hoãn binh khó khăn trước mắt. Chính sách cơ cấu nợ giúp khách hàng kéo dài thời gian trả nợ khi đã cạn kiệt nguồn tài chính, dòng tiền kinh doanh, tạo điều kiện để họ phục hồi sản xuất, kinh doanh (SXKD), tạo dòng tiền mới để trả nợ. Nhưng cơ cấu lại nợ trong điều kiện chưa kiểm soát được dịch bệnh về bản chất là đảo nợ kín, nguy cơ rủi ro cho ngân hàng là rất lớn.
Hiện các ngân hàng tiếp tục thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 14/2021/TT-NHNN và được NHNN gia hạn đến hết tháng 6/2022. Việc tái cơ cấu cho khách hàng bị ảnh hưởng dịch nhiều khả năng còn tăng trong thời gian tới. Như vậy, số dư nợ được cơ cấu lại sẽ không dừng ở con số 2 triệu tỷ đồng.
Cơ cấu lại nợ là tình thế bắt buộc để cứu khách hàng. Nhưng đối với ngân hàng nó là “con dao hai lưỡi”. Cứu được khách hàng tức ngân hàng đã cứu được mình vì quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng là quan hệ cộng sinh. Nhưng ngân hàng có thể “hốt” rủi ro khi liều thuốc cơ cấu nợ cho khách hàng không đủ sức để khách hàng hồi phục. Bởi vì để hồi phục SXKD, làm ăn lúc này đòi hỏi DN hay người dân phải có một gói hỗ trợ đủ lớn bao gồm nhiều thứ khác chứ không phải đơn độc chính sách hỗ trợ tín dụng.
Tĩnh Kiên
(Tổng Hợp)