Không ít ngân hàng sẵn sàng bán rẻ nợ xấu nhưng không tìm được khách mua nên đành gác lại, không đưa thông tin phát mại tài sản thu hồi nợ trên website dồn dập như trước. Lo nợ xấu cũ đang tồn tại, nợ xấu mới “rình rập” trước cửa, các ngân hàng muốn xử lý nợ và dồn dập đẩy tài sản bảo đảm ra bán, nhưng không dễ dàng trong bối cảnh đại dịch hiện nay.
Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 01/2020/TT-NHNN có nội dung chính là cho phép mở rộng các khoản nợ tái cơ cấu với việc tăng thời hạn khoản nợ phát sinh từ trước ngày 1/8/2021 và có phát sinh nghĩa vụ trả nợ gốc lãi từ 23/1/2020 đến 30/6/2022. Dự thảo cho phép ngân hàng có thể giữ nguyên nhóm nợ đối với những khoản nợ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 và được ngân hàng thực hiện tái cơ cấu, từ đó chưa phải trích lập cho các khoản nợ xấu.
Ngân hàng Thế giới cho rằng, hai đợt bùng phát dịch Covid-19 gần nhất đã ảnh hưởng đến lĩnh vực bán lẻ và một số tiểu ngành chế biến, chế tạo, doanh nghiệp và người dân có lẽ sẽ ngày càng gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các nghĩa vụ trả nợ.
Năm ngoái, tỷ lệ nợ xấu theo báo cáo của các ngân hàng tăng rất ít, từ 1,63% trong tháng 12/2019 lên 2,14% trong tháng 9/2020, nhưng cũng gây nên những ý kiến quan ngại.
Tỷ lệ nợ xấu thấp do Ngân hàng Nhà nước ban hành các biện pháp tạm thời cho phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn. Đặc biệt, ngày 7/9/2021, cơ quan này đã ban hành Thông tư 14/2021/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 01/2020/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước kéo dài thời gian cơ cấu nợ đến 30/6/2022.
Chuyên gia kinh tế cao cấp của Ngân hàng Thế giới, bà Dorsati Madani cho biết, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, cho vay có mục tiêu thường xảy ra tình trạng thiếu minh bạch về lý do, cơ sở kinh tế cho việc thực hiện cấp, quy mô và cách thức phân bổ các khoản vay, bao gồm các khoản vay dành cho doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp lớn có thể đang gặp khó khăn về tài chính. Rủi ro không thanh toán được của các khoản vay này cuối cùng có thể được chuyển từ khu vực kinh tế thực sang khu vực tài chính, vì vậy khu vực tài chính có thể trở nên dễ bị tổn thương hơn theo thời gian.
“Mặc dù ổn định tài chính chung đã được duy trì đến cuối tháng 6/2021, nhưng chất lượng khoản vay bắt đầu có dấu hiệu xấu đi ở một số ngân hàng. Tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP đạt mức 136% năm 2019, tăng mạnh lên 146% tính đến cuối năm 2020 làm gia tăng nguy cơ cho các ngân hàng do quan hệ của họ với những ngành kinh tế thực bị ảnh hưởng như du lịch, hàng không và có thể cả bất động sản”, bà Dorsati Madani nói.
Theo báo cáo 6 tháng đầu năm 2021 của Ngân hàng Nhà nước, dưới tác động của dịch bệnh Covid-19, tỷ lệ nợ xấu nội bảng có xu hướng tăng trong các tháng đầu năm 2021, từ mức 1,69% cuối năm 2020 lên 1,78% vào cuối tháng 4/2021. Ghi nhận từ báo cáo tài chính quý II/2021 của các ngân hàng, hơn nửa số ngân hàng đã công bố báo cáo này có số dư nợ quá hạn tăng cao so với cuối năm 2020.
Những số liệu chung đó có thể che lấp nguy cơ dễ bị tổn thương của một số ngân hàng thương mại, trong đó có những ngân hàng có tỷ lệ an toàn vốn thấp, được thể hiện qua việc thiếu khả năng đáp ứng các yêu cầu của chuẩn Basel II. Một hệ thống cảnh báo sớm cần được xây dựng để xác định những nguy cơ tiềm tàng ở từng ngân hàng và cả hệ thống.
Cương Nguyễn