Nợ xấu tăng mạnh là do tác động của dịch bệnh. Vì vậy, ngân hàng cần tăng trích lập dự phòng, cũng chính là tăng sự thận trọng để đến năm 2022, khi xử lý nợ xấu nhiều khoảng trống pháp lý sẽ xuất hiện…
Về những vướng mắc đang gặp phải khi xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42, điều này không phải do nghị quyết có giá trị dưới luật mà là do xung đột giữa các quy định trong các luật, cũng giống như việc nhiều bộ luật hiện nay tồn tại các mâu thuẫn.
Đại diện của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) cho rằng các quy định tại Nghị quyết 42 mới mang tính khuyến khích khách hàng tự nguyện giao tài sản, nên trong một số trường hợp ngân hàng vẫn bị giới hạn quyền thu giữ tài sản để xử lý nợ. Ngoài ra, còn có những khó khăn liên quan vấn đề thuế khi thực hiện thanh lý tài sản đảm bảo… Lãnh đạo VNBA đánh giá Nghị quyết 42 mới chỉ mang tính chất thí điểm và sau hơn 4 năm đã phát sinh một số bất cập, trong khi đó, dịch bệnh Covid-19 chưa thể được khống chế nhanh chóng, vì vậy, việc tiếp tục có quy định riêng về xử lý nợ xấu là cần thiết.
Trong bối cảnh Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu sẽ hết hiệu lực vào tháng 8/2022 và dịch bệnh Covid-19 có thể còn ảnh hưởng dai dẳng, việc nợ xấu tăng nhanh và có thể chưa được ghi nhận cũng như trích lập dự phòng đầy đủ là một rủi ro đáng lưu tâm đối với các ngân hàng thương mại. Để đảm bảo hoạt động của các ngân hàng an toàn và thông suốt, Ngân hàng Nhà nước đã có chính sách cho phép các nhà băng được khoanh nợ với các khoản vay chịu ảnh hưởng bởi dịch. Nghị quyết 42 cũng đang phần nào hỗ trợ các ngân hàng trong xử lý nợ xấu.
Số liệu của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) cho thấy từ khi Nghị quyết 42 có hiệu lực (15/8/2017) đến cuối tháng 8 năm nay, các tổ chức tín dụng đã xử lý gần 364.100 tỷ đồng nợ xấu thuộc phạm vi cho phép, tương đương mức xử lý bình quân 7.600 tỷ đồng/tháng. So với trước khi có Nghị quyết 42 (giai đoạn 2012-2017), tốc độ xử lý nợ xấu đã tăng hơn 2 lần (hơn 3.600 tỷ đồng/tháng).
Có tới 70% nhà băng ghi nhận tình trạng nợ xấu gia tăng so với đầu năm, theo số liệu tổng hợp từ báo cáo tài chính của 27 ngân hàng niêm yết. Thậm chí, số dư nợ xấu tại một số ngân hàng đến cuối tháng 9 đã tăng gấp đôi. Như tại VietinBank, ngân hàng này ghi nhận số dư nợ xấu đến cuối tháng 9 lên tới gần 18.100 tỷ đồng, tăng 90% so với đầu năm. Trong khi nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) giảm 41% thì nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) lại tăng hơn 7 lần và nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) tăng hơn 57%.
Tình trạng tương tự cũng diễn ra tại Vietcombank khi số dư nợ xấu tăng gấp đôi so với đầu năm, lên hơn 10.880 tỷ đồng. Trong đó, nợ nhóm 3 (nợ dưới chuẩn) cũng tăng hơn gấp đôi và nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) tăng 45%. Một loạt ngân hàng như NamABank, ACB, ABBank, Techcombank, VIB, SHB, VPBank, MSB, HDBank… đều ghi nhận số dư nợ xấu tăng 2 chữ số lũy kế 9 tháng.
Câu hỏi đặt ra là liệu nợ xấu có đáng ngại, có tác động tiêu cực đến hoạt động và kết quả kinh doanh của ngân hàng? Tác động của nợ xấu phụ thuộc vào sự kết hợp của nhiều yếu tố. Đó là mức nợ xấu tiềm ẩn được ghi nhận; tỷ lệ nợ xấu mà Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể kiểm soát; thời gian gia hạn việc phân loại nợ xấu; tốc độ phục hồi kinh tế để hỗ trợ tăng trưởng tín dụng. Nhiều chuyên gia cũng như đại diện các ngân hàng đều khẳng định, nợ xấu chắc chắn gây áp lực cho hệ thống ngân hàng và nền kinh tế, nhưng cũng không quá đáng ngại vì các ngân hàng đều tính toán “hy sinh” lợi nhuận để trích lập dự phòng rủi ro.
Trong bối cảnh hiện nay, các ngân hàng cần chủ động, linh hoạt trong xử lý nợ xấu, coi việc hỗ trợ khách hàng vay vốn cũng là hỗ trợ cho chính các tổ chức tín dụng. Bên cạnh giải pháp cơ cấu nợ, giãn nợ, giảm lãi suất hỗ trợ khách hàng, các ngân hàng cần thực hiện nghiêm việc trích lập dự phòng rủi ro, đồng thời siết chặt chất lượng tín dụng các khoản vay mới, tránh nợ xấu phát sinh thêm. Muốn vậy, trong xét duyệt tín dụng, các ngân hàng phải phân tích nguồn tiền trả nợ của khách hàng, thay vì chỉ tập trung vào tài sản bảo đảm.
Cương Nguyễn
(Tổng Hợp)