Kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát trong năm 2020 và đặc biệt năm 2021, Ngân hàng Nhà nước đánh giá, độ trễ tác động tới ngành ngân hàng sẽ kéo dài sang năm 2022. Nền kinh tế gặp khó khăn do đại dịch, nhiều doanh nghiệp và người dân không thể trả nợ ngân hàng thì đương nhiên sẽ phát sinh nợ xấu.
Theo kết quả điều tra quý IV/2021 do Ngân hàng Nhà nước thực hiện, có 50,5% tổ chức tín dụng đánh giá, mặt bằng rủi ro tăng trong quý III/2021, 33,7% dự báo tăng trong quý IV/2021 và 50,5% dự báo tăng trong cả năm 2021, cao hơn nhiều so với tỷ lệ nhận định ở kỳ điều tra trước (lần lượt là 27,2%, 23,3% và 39,8%).
Công ty Chứng khoán SSI cho rằng, nợ xấu ngành ngân hàng sẽ tăng cao hơn dự kiến và ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng lợi nhuận khi làn sóng dịch Covid-19 lần thứ tư kéo dài hơn dự tính. Trong báo cáo chiến lược công bố đầu tháng 10/2021, nhóm phân tích của Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) duy trì quan điểm nợ xấu và nợ được cơ cấu lại của ngành ngân hàng sẽ tăng mạnh trong giai đoạn cuối năm 2021, ảnh hưởng lên tốc độ và độ lớn của trích lập dự phòng. Tuy nhiên, nợ xấu sẽ có độ trễ trong việc hình thành, đồng thời có sự lệch pha giữa tốc độ tăng nợ xấu của các nhà băng.
“Kỳ vọng điểm rơi về nợ xấu chủ yếu ở quý cuối năm nay, nhưng các ngân hàng sẽ chủ động trích lập dự phòng, nhất là trong quý III/2021, tùy tình hình và năng lực tài chính của từng ngân hàng”, nhóm phân tích của VDSC nhấn mạnh.
Tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và các khoản tiềm ẩn trở thành nợ xấu đến cuối tháng 6/2021 là 3,66%. Nếu tính cả các khoản nợ không bị chuyển nợ xấu do được cơ cấu lại, miễn, giảm lãi theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN do ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 thì tỷ lệ này là 7,21% (cuối năm 2020 là 5,08%). Liên quan đến xử lý nợ xấu được xác định theo Nghị quyết 42 của Quốc hội, Báo cáo cho biết, lũy kế từ 15/08/2017 đến 30/6/2021, đã xử lý được 359.410 tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42. Trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng (không bao gồm xử lý bằng sử dụng dự phòng rủi ro và bán nợ cho VAMC thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt là 187.180 tỷ đồng (chiếm 52,08% tổng nợ xấu đã xử lý).
Bức tranh lợi nhuận quý III/2021 có thể không phản ánh chính xác tình hình thực tế, vì pháp luật không yêu cầu ngân hàng phải kiểm toán báo cáo tài chính quý. Vì vậy, nhà đầu tư cần lưu ý đến các khoản phải thu trên báo cáo tài chính của ngân hàng. Rất có thể, các khoản nợ xấu vẫn phát sinh lãi, khả năng không thu được nợ nhưng ngân hàng vẫn ghi nhận lãi. Đây là rủi ro tiềm tàng, làm gia tăng nợ xấu trong tương lai.
Rủi ro nợ xấu đang tiềm ẩn ở mức cao khi các khoản nợ tới hạn cuối tái cơ cấu, khách hàng phải dồn lại để trả một lúc. Với tình hình dịch bệnh trên toàn cầu nói chung, Việt Nam nói riêng vẫn phức tạp, chưa biết khi nào sẽ kết thúc, hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp khó có thể kỳ vọng sẽ sớm quay lại trạng thái bình thường.
Tình hình nợ xấu các ngân hàng
Báo cáo tài chính quý III/2021 và thông tin chia sẻ từ các ngân hàng cho thấy, bức tranh nợ xấu hiện tại không xấu như một số dự báo. Theo lãnh đạo các nhà băng, một phần là nhờ ngân hàng cẩn trọng kiểm soát chất lượng khoản vay trước tác động của dịch bệnh Covid-19.
Với SHB, kết thúc quý III/2021, tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát ở mức 2,1%, tăng không đáng kể so với mức 2,02% cuối tháng 6/2021.
Tổng nợ xấu của Kienlongbank tính đến ngày 30/9/2021 giảm 63% so với đầu năm, chỉ còn hơn 697 tỷ đồng. Nguyên nhân là do trong quý I, Ngân hàng đã xử lý toàn bộ tài sản bảo đảm, hoàn thành việc thu hồi nợ gốc và lãi phải thu của các khoản vay có tài sản bảo đảm là 174 triệu cổ phiếu STB. Bên cạnh đó, không ít khoản nợ có khả năng mất vốn được chuyển sang nợ nghi ngờ. Kết quả, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay giảm từ mức 5,42% xuống 2%.
Ngược lại, nợ xấu nội bảng của NCB đến cuối tháng 9/2021 là 800 tỷ đồng, tăng 191 tỷ đồng so với đầu năm; tỷ lệ nợ xấu trong 9 tháng đầu năm tăng từ 1,51% lên 1,94%.
Tổng nợ xấu của VietBank đến cuối quý III/2021 tăng 58% so với đầu năm, lên gần 1.244 tỷ đồng. Trong đó, nợ dưới tiêu chuẩn gấp 3,75 lần, nợ nghi ngờ gấp 2,7 lần đầu năm. Hệ quả, tỷ lệ nợ sau 9 tháng tăng từ mức 1,75% lên 2,65%.
Tỷ lệ nợ xấu của ACB trong 9 tháng đầu năm 2021 tăng, nhưng duy trì ở mức thấp so với toàn ngành khi chỉ tăng từ 0,6% lên 0,8%. Số dư nợ xấu của ngân hàng mẹ ACB tính đến hết tháng 9/2021 là 2.792 tỷ đồng, tăng 52% so với đầu năm. Tuy nhiên, lãnh đạo ACB cho biết, Ngân hàng đã trích lập hơn 2.000 tỷ đồng để dự phòng cho các khoản nợ xấu tái cơ cấu cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Theo đó, tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 195%.
Đến cuối tháng 9/2021, tỷ lệ nợ xấu của TPBank ở mức 1,02%, giảm so với mức1,1% cuối tháng 6.
Tỷ lệ nợ xấu riêng lẻ của HDBank đến cuối tháng 9/2021 duy trì dưới 1%, tỷ lệ nợ xấu hợp nhất ở mức 1,4%, đều thấp hơn cùng kỳ năm trước. Dư nợ các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao và nợ tái cơ cấu được kiểm soát tốt.
Tại SeABank, tính đến cuối tháng 9/2021, tỷ lệ nợ xấu ở mức 1,68%, giảm so với mức 1,76% cuối tháng 6/2021.
Tương tự, MSB có tỷ lệ nợ xấu tính đến cuối quý III/2021 ở mức 1,31%, giảm so với cuối quý II (1,6%). Ngân hàng này đã trích lập dự phòng 1.152 tỷ đồng cho các khoản vay khách hàng tính đến hết quý III, tăng 8,6% so với cuối quý II, nâng cao mức độ an toàn vốn cho giai đoạn có nhiều rủi ro do dịch bệnh.
Thông tin về xử lý nợ xấu, Ngân hàng Nhà nước cho biết, nếu không xảy ra dịch bệnh, mục tiêu tỷ lệ nợ xấu nội bảng dưới 3% cuối năm nay là hoàn toàn đạt được và khi cộng tất cả các khoản nợ xấu lại thì vẫn dưới 5%. Nhưng do dịch bệnh, nợ xấu tăng khá nhanh, tỷ lệ nợ xấu nội bảng nay đã khoảng 2%, tổng nợ xấu và tiềm ẩn dự báo là khoảng 8%. Con số này đáng quan tâm và đáng báo động. Trong báo cáo kết quả kinh doanh quý III đang được các ngân hàng lần lượt công bố, nợ xấu của một số ngân hàng đã dần thể hiện tình trạng này.
Tĩnh Kiên
(Tổng Hợp)