Chiếu theo Luật Chứng khoán 2019, hoạt động môi giới mua bán trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) của ngân hàng thực chất là môi giới chứng khoán, bởi điều 4.29 luật này quy định “môi giới chứng khoán là việc làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng”.
TPDN có bản chất là một loại chứng khoán nợ, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu (trái chủ) đối với một phần nợ của doanh nghiệp phát hành. Quan hệ giữa trái chủ và doanh nghiệp phát hành là quan hệ hai bên: chủ nợ và con nợ.
Do đó, nói đến các nghĩa vụ phát sinh từ TPDN là nhắc đến nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp phát hành cho các trái chủ theo những điều kiện phát hành. Nếu con nợ không có khả năng trả nợ, trái chủ đành chịu cảnh trắng tay.
Trong một thời gian rất dài, nghĩa vụ của các tổ chức trung gian trong hoạt động phát hành TPDN không được những nhà quản lý quan tâm đúng mức. Bằng chứng là trong các quy định pháp luật về phát hành TPDN (đặc biệt là phát hành riêng lẻ), nghĩa vụ của các tổ chức trung gian được quy định một cách chung chung hoặc để ngỏ. Đặc biệt là nghĩa vụ của đại diện người sở hữu TPDN còn khá mờ nhạt, chưa xứng tầm với vị trí đại diện cho quyền lợi của tập thể trái chủ. Trong quy định về phát hành TPDN riêng lẻ, không tồn tại quy định nào về nghĩa vụ của đối tượng này.
Hệ quả của thực trạng này thì đã và đang hiển thị rõ nét trên thực tế. TPDN được đẩy vào kênh phân phối của ngân hàng, ngồi cùng mâm với các sản phẩm tiền gửi tiết kiệm trên những tờ tiếp thị sản phẩm.
Kèm theo đó, thời hạn TPDN được phân nhỏ, lãi suất thay đổi hoặc đẩy lên cao, làm cho khách hàng có thể nhầm lẫn với tiền gửi tiết kiệm hoặc có niềm tin rằng thu hồi lại tiền lúc nào cũng được.
Nếu nhìn ở góc độ này, thì có thể khẳng định các tổ chức trung gian phát hành không có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ phát sinh từ TPDN cho các trái chủ. Vì tất cả các bên trung gian đều không phải là con nợ của trái chủ. Và pháp luật cũng quy định rất rõ rằng nhà đầu tư phải tự đánh giá, tự chịu trách nhiệm về quyết định đầu tư của mình và tự chịu các rủi ro phát sinh trong việc đầu tư và giao dịch trái phiếu.
Tuy nhiên, để một đợt phát hành TPDN thành công cần có sự tham gia của rất nhiều bên với tư cách là tổ chức trung gian cung cấp dịch vụ phát hành trái phiếu. Điển hình như tổ chức tư vấn về hồ sơ chào bán; tổ chức đấu thầu, bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành; tổ chức đăng ký, lưu ký; tổ chức đại lý quản lý tài sản bảo đảm; đại diện chủ sở hữu trái phiếu; tổ chức xếp hạng tín nhiệm; tổ chức kiểm toán.
Mỗi tổ chức trung gian gắn với một vai trò khác nhau giúp đợt phát hành TPDN được diễn ra thành công, đúng luật và bảo vệ được quyền lợi của nhà đầu tư. Thực tế, nhà đầu tư cũng không mua TPDN trực tiếp từ tổ chức phát hành mà thông qua các tổ chức trung gian. Đôi khi, chính danh tiếng và uy tín của tổ chức trung gian mới là lý do khiến nhà đầu tư tin tưởng để móc hầu bao mua trái phiếu.
Vậy nếu các tổ chức trung gian này cố tình mập mờ thông tin, lừa dối, ép buộc hay có những vi phạm khác trong quá trình cung cấp dịch vụ trung gian phát hành TPDN gây thiệt hại cho nhà đầu tư, thì trách nhiệm pháp lý sẽ là gì? Liệu trái chủ có thể kiện đòi bồi thường hay không?
Trong các quy định pháp luật về phát hành TPDN (đặc biệt là phát hành riêng lẻ), nghĩa vụ của các tổ chức trung gian được quy định một cách chung chung hoặc để ngỏ. Đặc biệt là nghĩa vụ của đại diện người sở hữu TPDN còn khá mờ nhạt, chưa xứng tầm với vị trí đại diện cho quyền lợi của tập thể trái chủ.
Bên cạnh đó, Luật các tổ chức tín dụng hiện hành (điều 103) quy định rằng các ngân hàng thương mại phải thành lập hoặc mua lại công ty con, công ty liên kết để thực hiện các hoạt động kinh doanh như bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán.
Nói cách khác, các ngân hàng thương mại không được quyền tự nhân danh mình thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán mà phải thông qua một công ty hoặc công ty liên kết.
Dưới góc độ về việc phòng ngừa xung đột lợi ích, người viết cho rằng quy định nêu trên là phù hợp. Việc để các ngân hàng tham gia vào phân phối hay môi giới những loại chứng khoán như TPDN rất dễ gây nên sự nhầm lẫn cho khách hàng và tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại, thậm chí khủng hoảng niềm tin của khách hàng như những gì đang diễn ra.
Một câu hỏi đặt ra trong việc ngân hàng thực hiện hoạt động môi giới mua bán TPDN là các ngân hàng này dựa trên cơ sở pháp lý nào và có được các cơ quan có thẩm quyền cấp phép hay chưa? Và nếu được cấp phép, các cơ quan này dựa trên căn cứ pháp lý nào?
Tổng Hợp