Kịch bản lạm phát phải tính toán đến mục tiêu giữ lãi suất cho vay đi ngang so với năm ngoái, giữ biên lãi ròng (NIM) ở mức cân đối giữa huy động và cho vay trong bối cảnh chịu sức ép lãi suất đầu vào, nhất là lãi suất trung hạn sẽ tăng.
Vị chuyên gia này nhận định, bối cảnh kinh tế Việt Nam và thế giới cùng với môi trường pháp lý cho hoạt động xử lý nợ xấu trong năm 2022 không hoàn toàn thuận lợi cho vấn đề giải quyết nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng (Thông tư 14 sẽ hết hiệu lực thi hành vào ngày 30/6/2022, Nghị quyết 42 sẽ hết hiệu lực thi hành vào ngày 15/8/2022). Tuy hoạt động kinh tế tiếp tục phục hồi song dịch Covid-19 kéo dài khiến doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn, dẫn tới nợ xấu có xu hướng gia tăng.
“Vấn đề nợ xấu có thể trở thành tâm điểm của thị trường tài chính Việt Nam trong năm 2022, khi mà tỷ lệ nợ xấu gộp đang ở mức cao nhất trong vòng 4 năm trở lại đây, phá vỡ thành quả tái cơ cấu các tổ chức tín dụng giai đoạn 2016 – 2020. Do có độ trễ, nợ xấu nội bảng được dự báo tăng lên mức 2,3 – 2,5% và nợ xấu gộp sẽ khoảng 6% trong năm 2022 và có thể ở mức cao hơn khi từ năm 2024, quy định giữ nguyên nhóm nợ hết hiệu lực (theo Thông tư 14), nếu tình hình phục hồi kinh tế thiếu khả quan”, ông Lực cảnh báo.
Công ty Chứng khoán Mirae Asset cho rằng, Việt Nam sẽ tăng lãi suất sớm hơn kỳ vọng, với những áp lực toàn cầu cũng như trong nước. Theo đó, lãi suất điều hành dự kiến tăng vào cuối năm 2022. Mặc dù lạm phát tại Việt Nam hiện ghi nhận mức tăng nhẹ, nhưng áp lực lạm phát dự kiến gia tăng trong thời gian tới dưới các tác động: thứ nhất, diễn biến tăng giá của các mặt hàng thiết yếu như thực phẩm, năng lượng; thứ hai, thặng dư thương mại thấp; thứ ba, các gói hỗ trợ kinh tế sắp được triển khai.
Trong diễn biến có liên quan, ngày 18/3/2022, Ngân hàng Nhà nước đã có Quyết định số 422/QĐ-NHNN ban hành kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 của Chính phủ. Một trong những nhiệm vụ và giải pháp của kế hoạch là điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng đồng bộ, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ. Điều hành tín dụng đáp ứng kịp thời vốn cho sản xuất – kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tiếp tục tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
Tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cổ phần nhìn nhận, co kéo giữa lãi suất huy động đang trong đà tăng và làm sao để lãi suất cho vay giữ được như năm ngoái là bài toán khó giải. “Thực tế, lợi nhuận trên cơ sở biên lợi nhuận giữa lãi suất huy động và cho vay của hệ thống ngân hàng không cao nếu nhìn vào nợ xấu của toàn ngành”, vị tổng giám đốc nói.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy, cuối năm 2021, tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 1,9% (tăng 0,21% so với cuối năm 2020), nếu tính thêm nợ bán cho VAMC thì con số này là 3,9%. Tỷ lệ nợ xấu gộp (bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa được xử lý và nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản cơ cấu lại) là 7,31% vào cuối năm 2021, tăng mạnh so với mức 5,1% cuối năm 2020 và tương đương con số cuối năm 2017 (7,4%) – là năm mà Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng có hiệu lực
TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV cho rằng, nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng gia tăng là điều đã được dự báo trước, khi sự bùng phát của đại dịch Covid-19, đặc biệt là làn sóng thứ tư với biến chủng Delta trong năm 2021 đã gây ra tổn thất nặng nề đối với các hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, sinh kế và đời sống của người dân.
Báo cáo tài chính năm 2021 được các ngân hàng công bố cho thấy, nợ xấu tại một số nhà băng tăng mạnh như VPBank (tăng 60% so với 2020), VietinBank (tăng 49%), VIB (tăng 58%), HDB (tăng 43%). Bình quân số dư nợ xấu của 28 ngân hàng thương mại niêm yết, đăng ký giao dịch và Agribank tăng 17,3% so với năm 2020.
Trong khi đó, vị tổng giám đốc trên cho biết, hệ thống ngân hàng đã cắt giảm không ít lợi nhuận để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, với các Thông tư 01, 03 và 14 nhằm thực hiện cơ cấu lại nợ, miễn, giảm lãi, phí nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, lũy kế từ cuối tháng 1/2020 đến hết năm 2021 có khoảng 616.000 tỷ đồng nợ được cơ cấu lại; miễn, giảm, hạ lãi suất cho trên 2,26 triệu khách hàng với tổng dự nợ hơn 3,9 triệu tỷ đồng.
Số tiền ngành ngân hàng đã hỗ trợ nền kinh tế năm 2020 khoảng 30.600 tỷ đồng. Năm 2021, con số này ước tính là 52.900 tỷ đồng (chưa bao gồm trích lập dự phòng rủi ro theo Thông tư 01, 03 và 14). Năm 2022, theo Thông tư 14, các tổ chức tín dụng sẽ tiếp tục giảm lãi suất, phí, cơ cấu lại nợ… với tổng mức hỗ trợ khoảng 20.000 – 25.000 tỷ đồng. Ngược lại, Thông tư 01, 03 và 14 giúp hệ thống ngân hàng ghi nhận từ từ các khoản nợ xấu, tăng thời gian chuẩn bị các nguồn lực cần thiết để có thể xử lý mà không gây ra cú sốc nợ xấu cho toàn ngành.
Được biết, tổng số tiền lãi giảm lũy kế từ 15/7/2021 đến 31/12/2021 của 16 ngân hàng là 21.244 tỷ đồng, đạt 105,13% so với cam kết. Trong đó, số tiền lãi giảm của VPBank là 605 tỷ đồng, tổng giá trị nợ được giảm lãi suất là 214.312 tỷ đồng cho 274.518 khách hàng. Tại SHB, số tiền lãi giảm cho khách hàng là 389 tỷ đồng, tổng giá trị nợ được giảm lãi suất là 144.697 tỷ đồng cho 41.670 khách hàng. Tại HDBank, tổng số tiền lãi giảm cho khách hàng là 302 tỷ đồng, tổng giá trị nợ được giảm lãi suất là 53.350 tỷ đồng cho 18.835 khách hàng.
Tổng số tiền lãi đã giảm cho khách hàng tại TPBank là 246 tỷ đồng, với tổng giá trị nợ được giảm lãi suất là 49.121 tỷ đồng cho 32.697 khách hàng. Tại MSB, tổng số tiền lãi giảm cho khách hàng là 185 tỷ đồng, với tổng giá trị nợ được giảm lãi suất là 55.080 tỷ đồng cho 4.233 khách hàng. Đối với LienVietPostBank, tổng số tiền lãi giảm cho khách hàng là 158 tỷ đồng, với tổng giá trị nợ được giảm lãi suất là 50.289 tỷ đồng cho 12.236 khách hàng…
Lợi nhuận trên cơ sở biên lợi nhuận giữa lãi suất huy động và cho vay của hệ thống ngân hàng không cao nếu nhìn vào nợ xấu của toàn ngành.
Tổng Hợp