Làn sóng dịch COVID-19 lần thứ tư bùng phát tại Việt Nam đã khiến các vùng kinh tế trọng điểm như Hà Nội, TP HCM và các tỉnh phía Nam phải gánh chịu những ảnh hưởng nặng nề.
Tính riêng TP HCM, trong 7 tháng đầu năm, có đến 23.199 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, chiếm 29,1% số doanh nghiệp rút lui của cả nước, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2020.
Sự gia tăng về doanh nghiệp rút lui chủ yếu do số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tăng lên 12.071 doanh nghiệp, chiếm 30% số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh của cả nước, tăng 25,7% so với cùng kỳ năm 2020. Đây là kỷ lục về số lượng doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh trong 7 tháng đầu năm tại TP HCM trong giai đoạn 2016-2021.
Hiệp hội Doanh nghiệp TP HCM cho biết thời gian qua, COVID-19 đã làm trên 70% doanh nghiệp bị ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động, đa số doanh nghiệp khác đều giảm từ 50% đến 90% doanh thu so với thời điểm trước dịch bệnh. Bên cạnh đó, do chưa thể đáp ứng thực hiện “3 tại chỗ” trong một thời gian quá ngắn (1 ngày) theo yêu cầu về phòng, chống dịch bệnh của UBND TP HCM nên nhiều doanh nghiệp đã phải tạm ngừng hoạt động.
Theo khảo sát từ 209 doanh nghiệp khu vực phía Nam của VTV, nhiều doanh nghiệp nhận được đơn đặt hàng đến tháng 3, tháng 4 năm sau nhưng hiện nay chỉ còn khoảng 30% lao động duy trì sản xuất. Tình thế này đang đẩy doanh nghiệp vào thế khó đối với các kế hoạch sản xuất sắp tới. Tổng thư ký Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP HCM, ông Nguyễn Chánh Phương, cho biết nếu việc gián đoạn chỉ diễn ra trong vòng 1-2 tháng thì không gây ra nhiều ảnh hưởng đến sự lựa chọn của các nhà mua hàng trên thế giới. Nhưng nếu tình trạng này kéo dài, chỉ từ 3 – 6 tháng, chắc chắn các bạn hàng thế giới sẽ đi tìm đối tác khác.
Quyết định giãn cách kéo dài nhiều tháng liên tiếp không chỉ gây ảnh hưởng đến tốc độ phục hồi kinh tế của các thành phố, mà còn tạo ra nhiều thách thức đến đà tăng trưởng, gây áp lực lớn lên dòng tiền chảy vào các doanh nghiệp. Điều này được thể hiện rất rõ qua số liệu báo cáo về tình hình đăng ký doanh nghiệp của Cục Đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong 7 tháng đầu năm.
Cụ thể, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường do chịu tác động của dịch bệnh tiếp tục có sự gia tăng với 79.673 doanh nghiệp, tăng 25,5% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh chiếm đến 50,5%. “Phần lớn các doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh và đã giải thể tập trung chủ yếu ở lĩnh vực thương mại, dịch vụ và là đối tượng liên tiếp chịu tác động từ những đợt bùng phát dịch bệnh trong thời gian qua,” Cục Đăng ký kinh doanh cho biết.
Kể từ khi dịch bệnh bùng phát, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Thông tư 01 và Thông tư 03 nhằm tái cơ cấu, giãn hoãn các khoản vay dư nợ và lãi vay đến hạn, giảm lãi suất, phí, cùng nhiều cơ chế chính sách khác để hỗ trợ và giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn. Mới đây, NHNN tiếp tục ra dự thảo sửa đổi, bổ sung Thông tư 01, kéo dài thời gian cơ cấu thời hạn trả nợ đến hết 30/6/2022 thay vì chỉ đến cuối năm nay.
Số liệu từ NHNN cho biết tính đến ngày 26/7, các tổ chức tín dụng (TCTD) đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 198.638 khách hàng với dư nợ 309.147 tỷ đồng. Riêng Ngân hàng Chính sách Xã hội đến ngày 26/7 đã thực hiện gia hạn nợ cho 191.235 khách hàng với dư nợ 4.723 tỷ đồng, cho vay mới đối với 3.192.080 khách hàng với số tiền 118.103 tỷ đồng. Dù vậy, tổng số dư nợ xấu tại 29 ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính quý II/2021 vẫn tăng 4,5% so với cuối năm trước, trong đó quá nửa số ngân hàng trên có số dư nợ xấu tăng và hơn 1/3 ngân hàng ghi nhận tăng trưởng nợ xấu hai con số.
Nhiều ý kiến cho rằng bức tranh nợ xấu chưa phản ánh đúng thực tế khi NHNN cho phép cơ cấu và giữ nguyên nhóm nợ đối với khách hàng bị tác động bởi dịch COVID-19. Theo báo cáo Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 mới đây của Chính phủ, dự báo đến cuối năm 2021, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống các TCTD ước đạt 1,54% – 1,91%.
Nếu tính thêm nợ bán cho VAMC, nợ tiềm ẩn, các khoản được cơ cấu lại không chuyển nhóm nợ theo Thông tư số 01, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống các TCTD dự báo ở mức 4,56% – 4,98% cuối năm 2021 và có thể lên đến gần 5% nếu kinh tế chậm phục hồi. Để ứng phó với điều này, hầu hết ngân hàng đã chủ động tăng khả năng phòng thủ bằng cách trích lập dự phòng. Thống kê từ báo cáo tài chính quý II của 28 ngân hàng, có tới 11 ngân hàng ghi nhận tỷ lệ bao phủ nợ xấu trên 100%, điều này có nghĩa là ngân hàng đã để ra quỹ dự phòng vượt mức nợ xấu đã phát sinh. Thậm chí, có ngân hàng sở hữu tỷ lệ bao phủ nợ xấu lên tới 352%.
Tĩnh Kiên