Diễn biến điều chỉnh lãi suất của các ngân hàng tại Việt Nam xuất hiện gần như tương đồng với thời điểm xu hướng lạm phát gia tăng trên toàn thế giới.
Ngày 7/12, tại cuộc họp giữa Hiệp hội Ngân hàng cùng các ngân hàng hội viên, tiếng nói của vị Tổng thư ký đã được hưởng ứng. Theo đó, toàn bộ ngân hàng tham gia cuộc họp đều thống nhất áp dụng mức lãi suất huy động tại các kỳ hạn tối đa là 9,5%/năm (kể cả các khoản khuyến mại cộng lãi suất) ổn định mặt bằng lãi suất huy động, đảm bảo an toàn thanh khoản hệ thống ngân hàng, trên cơ sở đó tiết giảm chi phí nhằm giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp.
Đáng chú ý, cũng bắt đầu từ ngày 7/12, Ngân hàng Nhà nước chính thức phát đi tín hiệu sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản hệ thống. Cụ thể, trên kênh cầm cố thị trường mở, nhà điều hành tiền tệ đã liên tục chào 3.000 tỷ đồng mỗi phiên với kỳ hạn kéo dài từ 14 ngày đến 91 ngày.
Đặc biệt, kể từ cuối tháng 9/2022, khi Ngân hàng Nhà nước buộc phải tăng lãi suất điều hành theo xu thế chung, các bước tăng trên biểu niêm yết của các ngân hàng thương mại cũng lớn hơn và gấp gáp hơn.
Cũng tại thời điểm đó, để ổn định tỷ giá và tránh lạm phát nhập khẩu vào Việt Nam, một trong những nhiệm vụ khó khăn mà Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đặt ra cho Ngân hàng Nhà nước nói riêng và ngành ngân hàng nói chung là: “Tăng lãi suất huy động nhưng cố gắng giảm hoặc ổn định mặt bằng lãi suất cho vay”.
Tuy nhiên, trao đổi với VnEconomy, lãnh đạo kinh doanh vốn ở một ngân hàng chia sẻ rằng, nếu Thủ tướng không yêu cầu thì bản thân các ngân hàng cũng buộc phải tăng lãi suất huy động.
Một yếu tố khác, mang tính chất cố hữu, cũng được vị lãnh đạo này nhắc đến đó là đảm bảo các tỷ lệ an toàn. Cụ thể, ngân hàng phải đẩy lãi suất huy động vốn trung, dài hạn lên cao hơn trước khi tỷ lệ này bị giảm từ 37% xuống 34% vào tháng 10/2022; LDR (tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi) không được cộng khoản vốn chuyên dùng của khách hàng…
Ngoài ra, khi sự kiện Vạn Thịnh Phát và SCB gây áp lực lên thanh khoản hệ thống, các ngân hàng có vốn cho vay trên liên ngân hàng chuyển trạng thái phòng thủ. Giao dịch tín chấp trên liên ngân hàng cũng vì đó mà bị hạn chế, các giao dịch hầu như đều yêu cầu có tài sản đảm bảo và bị áp tỷ lệ phòng vệ rủi ro quá cao so với thời điểm trước đó. Trong khi, khối lượng giấy tờ có giá sẵn có để phục vụ cho nhu cầu trên của nhóm ngân hàng thương mại quy mô nhỏ và vừa lại không nhiều, nên buộc phải nâng lãi suất huy động để đảm bảo thanh khoản.
Việc tăng lãi suất huy động đã giúp các ngân hàng hút về một lượng tiền lớn. Theo Ngân hàng Nhà nước, đến cuối tháng 10/2022, tổng tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đạt hơn 11,4 triệu tỷ đồng. Trong đó, so với cuối tháng liền trước, tiền gửi của dân cư tiếp tục tăng hơn 21.500 tỷ đồng, lên mức 5,66 triệu tỷ đồng. Còn so với cuối năm 2021, hệ thống ngân hàng đã huy động được gần 360.000 tỷ đồng từ dân cư.
Trong bối cảnh ngân hàng khát tiền gửi, việc tăng lãi suất đã giúp giảm căng thẳng về thanh khoản. Song, khi chi phí đầu vào tăng tới 3-4 điểm phần trăm như thống kê của Hiệp hội Ngân hàng, lãi suất cho vay chắc chắn cũng biến động theo chiều đi lên.
Trước tình hình này, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng, nhìn nhận rằng các ngân hàng phải có sự sẻ chia với nhau. Nếu không, thị trường rất dễ rơi vào vòng xoáy lãi suất và mặt bằng các loại lãi suất sẽ ngày càng bị “đôn” lên cao, gây khó khăn cho cả người dân và ngành ngân hàng.
Nền kinh tế toàn cầu đã trải qua một năm 2022 đầy khó khăn, với lạm phát cao nhất trong nhiều thập kỷ buộc các ngân hàng trung ương phải tăng lãi suất với tốc độ chưa từng có tiền lệ để kiểm soát đà leo thang của giá cả.
Chiến dịch thắt chặt chính sách tiền tệ để chống lạm phát của các ngân hàng trung ương có thể đang phát huy tác dụng, nhưng đồng thời cũng có thể gây ra những tổn thất không nhỏ cho kinh tế thế giới trong năm 2023.
“Có vẻ như nền kinh tế thế giới sẽ đối mặt với suy thoái trong năm 2023 như một hệ quả của lãi suất tăng để chống lạm phát”, ông Kay Daniel Neufeld – Giám đốc dự báo của Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và kinh doanh (CEBR) có trụ sở ở London, Anh – nói với trang CNN Business.
Dự báo cho rằng nền kinh tế toàn cầu đang rơi vào suy thoái không nhận được sự đồng tình của tất cả các chuyên gia kinh tế. Nhưng với tốc độ tăng trưởng được dự báo sẽ tiếp tục giảm xuống mức thấp hơn sau khi đã giảm mạnh trong năm 2022, kịch bản suy thoái có khả năng cao sẽ trở thành hiện thực.
Hồi tháng 10, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu chỉ đạt 2,7% trong năm 2023. Ngoại trừ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và giai đoạn tồi tệ nhất trong đại dịch Covid-19, đó là mức tăng trưởng hàng năm yếu nhất của thế giới kể từ năm 2001. Tháng 11, IMF cảnh báo rằng triển vọng kinh tế giới thậm chí còn trở nên xấu hơn kể từ khi dự báo đó được đưa ra.
Theo CNN Business, liệu thế giới có rơi vào suy thoái trong năm nay hay không sẽ tuỳ thuộc nhiều vào 3 yếu tố gồm: chính sách của các ngân hàng trung ương; tiến trình mở cửa trở lại của Trung Quốc; và diễn biến giá năng lượng.
IMF đã gọi lạm phát là “mối đe doạ trực tiếp nhất đối với sự thịnh vượng ở hiện tại và trong tương lai”. Và dù lạm phát đã bắt đầu giảm ở Mỹ và châu Âu khi giá năng lượng lùi bước và hiệu ứng của lãi suất tăng ngấm vào nền kinh tế, các ngân hàng trung ương đã thể hiện rõ quan điểm rằng họ không có ý định sớm dừng tăng lãi suất, cho dù họ đã thoải mái hơn với việc áp dụng bước nhảy lãi suất ngắn hơn.
“Chúng tôi chưa xoay trục. Chúng tôi chưa hề dao động”, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) Christine Lagarde phát biểu hồi tháng 12.
Các quyết định chính sách tiền tệ được các ngân hàng trung ương lớn như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), ECB, Ngân hàng Trung ương Anh (BOE), Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ)… đưa ra theo từng cuộc họp và dựa trên các số liệu kinh tế cập nhật. Các nhà hoạch định chính sách tiền tệ nhấn mạnh rằng họ không thể biết chắc cần phải nâng lãi suất lên mức cực đại là bao nhiêu và duy trì mức đó trong thời gian bao lâu để kéo lạm phát về mức 2% một cách bền vững. Nếu giá cả tiếp tục tăng mạnh hơn mong muốn, các ngân hàng trung ương có thể phải hành động quyết liệt hơn những gì họ dự kiến, từ đó gia tăng sức ép đối với nền kinh tế toàn cầu.
Tổng Hợp
(VnE)