Giá cả tài sản lại có dấu hiệu bùng phát. Nền kinh tế thực dường như chưa thể phục hồi sau gần 2 năm đại dịch, nhưng thị trường chứng khoán và bất động sản thì luôn duy trì “phong độ” thậm chí có dấu hiệu gia tăng bất thường và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Nếu bỏ qua hiện tượng lạm phát có xu hướng tăng mạnh những tháng cuối của năm 2021, hầu như cung tiền tăng mạnh thời gian qua đã không song hành với lạm phát tăng lên.
Câu chuyện tương tự ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới. Hãy bỏ qua dấu hiệu lạm phát tăng tốc thời gian gần đây. Câu hỏi đặt ra về cơ chế kinh tế học đó là tiền này đã đi về đâu?
Theo dự báo của OECD Economic Outlook ngày 22/9/2021, GDP toàn cầu sẽ có thể tăng trưởng ở mức 5,7% và 4,5% lần lượt năm 2021 và 2022. Cả 2 đều thấp hơn mức dự phóng ban đầu trước đó. Dù cho tổng GDP toàn cầu giờ đây đã vượt mức GDP thời điểm tiền đại dịch (năm 2019) nhưng vẫn còn thấp hơn khoảng 3,5 điểm phần trăm so với chỉ số GDP dược dự báo ban đầu trước khi xảy ra COVID-19. Các nước tiên tiến đang hồi phục tốt hơn từ cuộc suy thoái sâu năm 2020. Nhưng hố cách lớn về sản lượng và việc làm vẫn còn đó ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi.
Câu hỏi đặt ra là với rất nhiều gói QE được tung ra như vậy ở thập niên qua, nhưng tại sao lạm phát chưa thực sự bùng lên? Nhưng dù cho Milton Friedman và mối quan hệ của tăng trưởng cung tiền và lạm phát có còn đúng hay không thì một khả năng là các gói QE có thể đang tiềm ẩn hình thành rủi ro tạo ra các chu kỳ bùng phát và sụp đổ (boom-and-bust cycles) và bất ổn tài chính do chính phủ tạo ra. Thực tế cho thấy, tiền đang có xu hướng chảy vào khu vực tài chính và giá tài sản đang bùng lên ở nhiều nơi.
Hôm thứ Năm tuần trước, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen cho biết, bà tin rằng đã đến lúc ngừng mô tả lạm phát là “tạm thời”, và biến thể Omicron của virus SARS-CoV-2 có thể khiến tình trạng giá cả leo thang kéo dài. “Với biến thể mới Omicron, chúng ta có thể phải sống chung với đại dịch lâu hơn. Điều này có thể không kìm hãm các hoạt động kinh tế quá mức, nhưng sẽ ảnh hưởng đến hành vi của chúng ta, theo hướng làm gia tăng lạm phát”. Quan điểm này của bà Yellen tương tự như tuyên bố được Chủ tịch Fed Jerome Powell đưa ra hồi đầu tuần về việc lạm phát sẽ không còn là vấn đề mang tính ngắn hạn. Người đứng đầu Fed nhận định: “Tại thời điểm này, nền kinh tế đã phục hồi mạnh mẽ và áp lực lạm phát tăng cao. Do đó, theo quan điểm của tôi, việc cân nhắc cắt giảm quy mô chương trình mua trái phiếu có lẽ sẽ sớm hơn một vài tháng”. Ông Powell cũng tiết lộ vấn đề này có khả năng sẽ được đưa ra thảo luận tại cuộc họp chính sách tháng 12.
Trước đó, Fed từng cho rằng phần lớn lạm phát được thúc đẩy bởi tình trạng tắc nghẽn chuỗi cung ứng do những hạn chế liên quan đến dịch Covid-19. Theo các nhà hoạch định chính sách Mỹ, khi đại dịch dịu đi, những vấn đề này sẽ tự được giải quyết, mà không cần đến các biện pháp can thiệp mạnh tay như nâng lãi suất. Tuy nhiên, theo New York Times, ngoài Bộ trưởng Tài chính Yellen và Chủ tịch Fed Jerome Powell, ngày càng nhiều quan chức trong ngành tài chính Mỹ bày tỏ mối quan ngại về việc lạm phát đang tỏ ra dai dẳng hơn so với dự kiến trước đây. Điều này được cho là có thể khiến Fed phải đẩy nhanh quá trình cắt giảm chương trình mua trái phiếu được triển khai trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Trong bài phát biểu cuối cùng trên cương vị Chủ tịch Fed, ông Randal Quarles cho biết, ông “chắc chắn sẽ ủng hộ việc kết thúc chương trình mua trái phiếu sớm hơn” so với kế hoạch ban đầu là tháng 6 năm sau. Theo ông Quarles, lạm phát gia tăng có thể không còn chỉ là câu chuyện tắc nghẽn chuỗi cung ứng nữa, và Fed cần phải phản ứng nhanh hơn để hạn chế nhu cầu.
Câu hỏi này gần như phù hợp cho bối cảnh của giai đoạn 2009-2020. Liệu rằng nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Milton Friedman và thuyết số lượng tiền tệ có bị sai? Liệu rằng “lần này thì khác” có thực sự đúng? Câu chuyện của Anh và Mỹ là những ví dụ điển hình. Bằng chứng cho thấy, giữa năm 2009 đến 2019, Ngân hàng Trung ương Anh đã bơm 425 tỉ bảng Anh (588 tỉ USD), tương đương 22,5% GDP của Anh năm 2012 vào nền kinh tế. Theo ước tính, gói bơm tiền này sẽ đẩy lạm phát thực tế ở mức 1,1% năm 2009 của Anh sau ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lên mức mục tiêu trung hạn 2%. Tuy nhiên, thực tế là sau hơn một thập niên nới lỏng định lượng, lạm phát ở Anh vẫn thấp hơn cả mức lạm phát của năm 2009 và tăng trưởng GDP chưa hồi phục trở lại mức trước thời điểm khủng hoảng. Trong khi đó, giá nhà và chứng khoán đã bắt đầu tăng tốc trong cùng giai đoạn này.
Mỹ là một điển hình khác về các gói QE khổng lồ và giá tài sản gia tăng đột biến. Ngay sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, Mỹ tung ngay các gói QE lên đến hàng ngàn tỉ USD cùng với những giải pháp mở rộng tài khóa. Tiếp theo đó là 2 năm diễn ra đại dịch COVID-19, các gói cứu trợ và QE tiếp tục được bơm vào nền kinh tế lớn nhất thế giới. Theo dữ liệu của S&P CoreLogic Case-Shiller Home Price Indices, giá nhà ở Mỹ đã tăng 19,7% năm 2020 và tiếp tục tăng năm 2021, thậm chí đang phát ra “tín hiệu đỏ”.
Điều này đang có nghi vấn về hậu quả của các gói QE cũng như chính sách kích cầu ở hầu hết các quốc gia là nguyên nhân làm gia tăng giá tài sản và có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính mới. Tuy nhiên, như thường lệ, một lời trấn an mang tên “lần này thì khác” lại xuất hiện. Đứng trên góc độ kinh tế học vĩ mô, nếu bỏ qua hiện tượng lạm phát đang có dấu hiệu bùng lên thời gian gần đây vì nhiều nguyên nhân, một câu hỏi đặt ra: Tại sao các gói bơm tiền và kích thích kinh tế đã không thực sự hiệu quả đối với nền kinh tế thực – hoạt động sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ – nhưng lại cũng không thực sự tạo ra lạm phát?
Ngân hàng Phát triển châu Á hôm qua (14/12) đã điều chỉnh dự báo về triển vọng tăng trưởng kinh tế năm 2021 của Đông Nam Á, khi các nền kinh tế trong tiểu vùng áp đặt những hạn chế có trọng điểm để ứng phó với biến thể Delta của Covid-19. Theo đó, tăng trưởng của khu vực này được điều chỉnh giảm 0,1 điểm phần trăm, xuống còn 3,0%. Dự báo tăng trưởng cho năm sau được tăng lên 5,1%, khi các nền kinh tế dự kiến sẽ tiếp tục nới lỏng hạn chế nói chung và phục hồi các hoạt động kinh tế. Lạm phát trong khu vực được dự báo vẫn nằm trong tầm kiểm soát, ở mức 2,1% năm nay và 2,7% năm tới, cho phép thực hiện chính sách tiền tệ thích ứng hơn và hỗ trợ các nỗ lực phục hồi đại dịch. Rủi ro chính đối với triển vọng tăng trưởng vẫn là sự gia tăng lại số ca mắc Covid-19.
Tổng Hợp