FiinRatings vừa có báo cáo về trái phiếu doanh nghiệp tháng 2/2023. Theo thống kê, tháng 2 ghi nhận tổng cộng 03 lô trái phiếu phát hành thành công trị giá 2.000 tỷ đồng…
Trong đó có một lô riêng lẻ của Công ty Cổ phần Đầu tư Bất động sản Sơn Kim và hai lô trái phiếu phát hành ra công chúng thuộc Công ty Cổ phần Tập đoàn Masan. Lô trái phiếu riêng lẻ của Sơn Kim trị giá 500 tỷ và lãi suất danh nghĩa 13,5%/năm cho kỳ hạn 2 năm, trong khi hai lô phát hành của Masan có tổng giá trị 1.500 tỷ với lãi suất cố định của hai kỳ đầu tiên là 9,5%. Cả 03 lô trái phiếu đều không chuyển đổi và không kèm chứng quyền.
Như vậy, khối lượng phát hành riêng lẻ trong tháng 2 chỉ tương đương 17,4% so với tháng liền kề, nhưng tổng giá trị phát hành đã tăng đáng kể trên nền phát hành thấp của tháng trước. Theo Fiin, đây là một chiều hướng đáng chú ý và có thể tiếp tục tiếp diễn trong thời gian tới, đặc biệt khi Nghị định 08/2023/NĐ-CP đã ra đời với mục tiêu tháo gỡ khó khăn, nhất là trong giai đoạn đáo hạn cao điểm của trái phiếu doanh nghiệp trong năm 2023 và 2024.
Quy mô trái phiếu mua lại trước đáo hạn trong tháng 2 đạt gần 6 nghìn tỷ đồng, tương đương 65,9% so với tháng trước và tăng gần 36% so với cùng kỳ năm 2022. Mặc dù hoạt động mua lại thường có xu hướng tăng vọt vào thời điểm cuối các kỳ báo cáo bán niên hoặc cuối năm và giảm mạnh vào đầu năm, hoạt động mua lại cũng phụ thuộc lớn vào mức độ sẵn có nguồn tiền hiện tại, hoặc khả năng thu xếp nguồn vốn khác ngoài tín dụng trái phiếu. Trước bối cảnh kiểm soát tín dụng bất động sản, hoạt động mua lại cũng gặp nhiều thách thức trong thời gian tới.
Ngày 21/2/2023, Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) đã công bố danh sách 54 tổ chức phát hành chậm thực hiện nghĩa vụ nợ trái phiếu. Mặc dù một số doanh nghiệp đã thực hiện thanh toán sau đó, tính đến ngày 08/03/2023, số liệu của Fiin cho thấy số lượng doanh nghiệp chậm thanh toán nghĩa vụ nợ trái phiếu đã lên đến 67, trong đó có 63 doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ nợ và 4 doanh nghiệp đã thực hiện tái cơ cấu nợ thông qua việc giãn kỳ hạn. Hầu hết các doanh nghiệp đưa ra lãi suất nhằm đền bù cho nhà đầu tư, từ đó phản ánh lên mức lãi suất mới cao hơn của toàn thị trường. Tổng giá trị các lô TPDN được ghi nhận chậm thanh toán đạt 89,3 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 55% lượng trái phiếu đang lưu hành của các doanh nghiệp trên. Khả năng đáp ứng nghĩa vụ nợ cho các lô trái phiếu này phụ thuộc vào phân kỳ đáo hạn sắp tới, khả năng huy động nguồn vốn khác của doanh nghiệp cũng như kỳ vọng vào dòng tiền từ hoạt động kinh doanh.Tính trên tổng giá trị TPDN phi tài chính đang lưu hành, tỷ lệ nợ xấu từ các lô trái phiếu được Fiin tính toán ở mức 11,3%. Riêng đối với các tổ chức phát hành là doanh nghiệp bất động sản, tỷ lệ nợ xấu ở mức cao hơn là 18,7%.
Tổng giá trị TPDN riêng lẻ đáo hạn trong năm 2023 được ước tính ở mức 235 nghìn tỷ đồng, trong đó các doanh nghiệp bất động sản có số dư trái phiếu sẽ đến hạn ở mức 100 nghìn tỷ. Tổng dư nợ trái phiếu riêng lẻ đáo hạn trong hai quý sắp tới lần lượt ở mức 36,2 nghìn tỷ vào quý 2 và 35,4 nghìn tỷ vào quý 3. Fiin kỳ vọng các chính sách mới hiện nay, bao gồm Nghị định 08 về trái phiếu riêng lẻ và Nghị quyết 33 vừa ban hành của Chính phủ, sẽ là nền tảng tạo điều kiện cho các thành viên thị trường thực hiện hoạt động tái cấu trúc nợ, cũng như hỗ trợ chủ đầu tư tiếp cận nguồn tín dụng mới khi các biện pháp cho vấn đề pháp lý bất động sản được triển khai.
Nghị định số 08/2023/NĐ-CP sửa đổi Nghị định số 65/2022/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) riêng lẻ đã đưa ra một số điểm mới, nhằm giúp tháo gỡ phần nào khó khăn của thị trường trong bối cảnh hiện nay.
Việc cho phép doanh nghiệp phát hành thay đổi các điều kiện và điều khoản của trái phiếu, bao gồm việc hoàn trả bằng các tài sản khác hoặc kéo dài thời hạn trái phiếu, sẽ giúp một số tổ chức phát hành đang gặp khó khăn về dòng tiền dễ thở hơn trong việc thanh toán các khoản trái phiếu đến hạn.
Tuy nhiên, một số chuyên gia lo ngại về việc triển khai Nghị định 08. Trong số đó xuất phát từ khả năng sử dụng các tài sản khác để trả nợ. Trường hợp trái chủ không đồng ý hoặc khó thống nhất về định giá sẽ gây ra mâu thuẫn giữa tổ chức phát hành và trái chủ. Khi đó, cả hai bên sẽ mất thời gian thương lượng và đi đến thỏa thuận về giá trị của tài sản trước khi tiến hành hoàn trả.
Hay việc không thống nhất về định giá tài sản cũng dễ dẫn đến tranh chấp pháp lý và trì hoãn việc hoàn trả trái phiếu. Hơn nữa, chất lượng của tài sản được sử dụng làm tài sản thế chấp còn gây ra nhiều lo ngại. Thậm chí, một số tổ chức phát hành không có đủ tài sản để trả nợ.
Trong những tình huống như vậy, trái chủ sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận hoàn trả một phần hoặc gia hạn thời gian trả nợ. Điều này càng hưởng đến niềm tin của các nhà đầu tư vào thị trường TPDN, dẫn đến sụt giảm số lượng nhà đầu tư trong tương lai.
Trong trường hợp có tranh chấp về việc định giá tài sản, các bên có thể cần thuê chuyên gia định giá, là bên thứ ba để xác định giá trị hợp lý của tài sản. Quy trình này sẽ gây tốn thời gian và phát sinh chi phí cho cả hai bên. Nếu trái chủ và tổ chức phát hành không thể đạt được thỏa thuận về việc định giá hoặc giãn nợ, trái chủ chỉ còn lại quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Trên thực tế, một số doanh nghiệp đã thông tin về kế hoạch trả khoản đầu tư trái phiếu bằng tài sản. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, doanh nghiệp đang gây khó khi yêu cầu trái chủ nộp thêm tiền mua tài sản.
Đơn cử như mới đây một Tập đoàn đã thông tin gạt nợ sang bất động sản. Theo đó, đơn vị này đã làm việc với các đối tác và chọn ra hai dự án bất động sản với nhiều loại sản phẩm đủ điều kiện để đề xuất với các nhà đầu tư phương án đổi nợ lấy đất.
Cụ thể, một dự án tại Thanh Hóa đang có 75 lô đất, diện tích từ 100-194m2, giá bán đổ đồng là 300 triệu đồng, nhà đầu tư được gạt nợ 100 triệu đồng, phải vào thêm tiền 200 triệu đồng.
Chị T.H, một nhà đầu tư trái phiếu của một doanh nghiệp bất động sản cho biết, doanh nghiệp chị đầu tư trái phiếu trước đó cũng có thông báo, nhà đầu tư được lựa chọn 2 phương án: Gia hạn thanh toán tối đa 12 tháng khoản tiền gốc, áp dụng lãi suất cố định 13%/ năm.
Hoặc chuyển đổi sang mua, sở hữu bất động sản. Tỉ lệ chuyển đổi tối đa 70% giá trị bất động sản tại TPHCM, 50% giá trị bất động sản tại Hà Nội. Có nghĩa, khách hàng phải đóng thêm tiền tương ứng 30-50% giá trị tài sản.
Ví dụ, nếu căn hộ tại Hà Nội được định giá 3 tỉ đồng, trái chủ chỉ được chuyển đổi 50%, ương ứng 1,5 tỉ đồng và phải đóng thêm 1,5 tỉ đồng để sở hữu căn hộ.
Theo chị H, số tiền đầu tư khoảng hơn 4 tỉ đồng, thừa để mua 1 – 2 căn hộ. Nhưng họ không cho đổi ngang 100% mà chỉ cho tối đa 50 – 70%. “Nếu đổi ngang được hoặc tài sản dưới giá trị đầu tư thì tôi chấp nhận nhưng họ lại yêu cầu đóng thêm tiền. Như thế này là làm khó chính chúng tôi”, chị H nói.
Tổng Hợp
(Lao Động, Nhịp Sống Thị Trường)