Theo số liệu tổng hợp từ báo cáo tài chính của 28 ngân hàng, tổng dư nợ cho vay khách hàng lũy kế 6 tháng đầu năm đạt 10,5 triệu tỷ đồng, tăng gần 6% so với cuối năm 2022. Big 4 ngân hàng chiếm tỷ trọng 53% tổng dư nợ cho vay.
Tại ngày 30/6, tổng nợ xấu của 28 ngân hàng ghi nhận 213.416 tỷ đồng, tăng 33%. Trong đó, nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3) ở mức 64.906 tỷ đồng, tăng 79%, nợ nghi ngờ (nợ nhóm 4) tăng 41% lên 73.881 tỷ đồng, nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) nhích tăng nhẹ 3,5% so với đầu năm lên 74.628 tỷ đồng.
Tính đến hết quý II, nhóm ngân hàng quốc doanh (Agribank, BIDV, VietinBank và Vietcombank) có tổng dư nợ cho vay khách hàng ở mức 5,62 triệu tỷ đồng, tăng 4,5% so với đầu năm, chiếm tỷ trọng 53%.
Đứng đầu là BIDV với 1,62 triệu tỷ đồng, tăng 7%, đây cũng là đơn vị có mức tăng trưởng tín dụng mạnh nhất trong nhóm Big 4. Agribank ở vị trí thứ 2 với 1,46 triệu tỷ đồng, tăng 1,25%. Theo sau là VietinBank với 1,35 triệu tỷ đồng, tăng 6,6% và tại Vietcombank là 1,1 triệu tỷ đồng, tăng 2,8%.
Bên cạnh nhóm ngân hàng có vốn Nhà nước, nhiều đơn vị trong nhóm ngân hàng tư nhân ghi nhận dư nợ tín dụng tăng trưởng hai chữ số.
Cụ thể, MB là ngân hàng tư nhân có quy mô cho vay khách hàng lớn nhất trong nhóm này nhờ mức tăng trưởng tín dụng 12,4% lên hơn 518.071 tỷ đồng. VPBank ghi nhận 488.644 tỷ đồng, tăng 11,5%. Techcombank tăng gần 11% lên 466.546 tỷ đồng; TPBank ở mức 177.113 tỷ đồng, tăng 10%; MSB tăng 13% lên 136.593 tỷ đồng.
Số liệu thống kê cho thấy, trong 28 ngân hàng chỉ duy nhất 2 đơn vị ghi nhận nợ xấu giảm so với đầu năm. Số còn lại đều ghi nhận nợ xấu tăng cao, trong đó một đơn vị có mức tăng 188%, gấp gần 3 lần so với con số đầu năm.
Về quy mô nợ xấu, VPBank đang là ngân hàng có nợ xấu lớn nhất với 31.864 tỷ đồng, tăng 27% so với cuối năm 2022. Mặc dù, nợ có khả năng mất vốn có cải thiện, giảm 30% xuống còn 4.989 tỷ đồng. Nhưng nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ lại tăng mạnh lên lần lượt 45% và 53% lên 11.502 tỷ đồng và 15.371 tỷ đồng.
3 vị trí sau VPBank đều thuộc nhóm Big 4, BIDV ghi nhận 25.970 tỷ đồng, tăng 47%, riêng nợ nghi ngờ nhân đôi lên gần 5.300 tỷ đồng. Agribank ở mức 25.945 tỷ đồng, tăng 9% và VietinBank là 17.308 tỷ đồng, tăng 10%.
Xét về tốc độ tăng trưởng nợ xấu, TPBank là đơn vị ghi nhận mức tăng mạnh nhất lên tới 188% lên hơn 3.900 tỷ đồng. Trong đó, nợ nhóm 3 gấp 5,5 lên 2.146 tỷ đồng, nợ nghi ngờ gấp 2,5 lần lên 1.130 tỷ đồng, và nợ có khả năng mất vốn tăng 26% lên 635 tỷ đồng.
Sacombank cũng ghi nhận nợ xấu tăng 91% lên hơn 8.226 tỷ đồng, đồng thời cũng thuộc top 10 ngân hàng có nợ xấu lớn nhất hệ thống.
Ngoài ra trong nhóm nợ xấu tăng cao còn có NamABank (tăng 81%, lên 3.515 tỷ đồng), VietABank (tăng 74%, lên 1.659 tỷ đồng), MSB (tăng 70%, lên 3.496 tỷ đồng), LPBank (tăng 65%, lên 5.656 tỷ đồng), Techcombank (tăng 65%, lên 5.002 tỷ đồng)…
Nhóm ngân hàng tư nhân còn lại VIB, ACB, OCB, ABBank, Eximbank… cùng ghi nhận nợ xấu tăng trên 50%.
Riêng chỉ có SHB và Kienlongbank ghi nhận nợ xấu giảm. Trong đó, Kienlongbank ghi nhận nợ xấu giảm 7%, xuống còn 789 tỷ đồng nhờ nợ có khả năng mất vốn giảm 20%, còn 517 tỷ đồng. Tại SHB, nợ xấu giảm 3% còn hơn 10.481 tỷ đồng, chủ yếu do nợ có khả năng mất vốn cải thiện giảm 22% còn 5.745 tỷ đồng.
Tính đến hết 30/6, tỷ lệ nợ xấu trung bình của 28 ngân hàng ở mức 2,02%, tăng 0,41 điểm % so với đầu năm. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu trung bình giảm từ 127% còn 105%.
Qua số liệu từ báo cáo tài chính cho thấy những khó khăn của nền kinh tế cũng đang dồn lên hệ thống ngân hàng. Nhìn trên tổng thể, tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn hệ thống đang được kiểm soát ở mức dưới 3%, nhưng nợ xấu ở 7 ngân hàng đã vượt qua mức này.
NCB tiếp tục là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao nhất ở mức 25,6% trong khi chỉ số này tại thời điểm cuối năm 2022 là 17%.
Một số ngân hàng khác có tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh trong quý II còn có ABBank tăng từ 2,88% đầu năm lên 4,55%. TPBank tăng từ 0,84% lên 1,37%, VIB tăng 1,18 điểm % lên 3,63%. NamABank tăng 1,09 điểm % lên 2,72%.
Với nhóm ngân hàng quốc doanh, tỷ lệ nợ xấu vẫn được kiểm soát. Trong đó, Vietcombank có tỷ lệ 0,83%, tăng 0,15 điểm %. VietinBank nhích tăng nhẹ từ 1,24% lên 1,27%. BIDV tăng từ 1,16% lên 1,59%. Agribank tăng từ 1,64% lên 1,77%.
Về tỷ lệ bao phủ nợ xấu, 23/28 ngân hàng ghi nhận chỉ số này giảm so với đầu năm. Theo đó, MB ghi nhận tỷ lệ bao phủ giảm 82 điểm %, xuống còn 156%, do đó lui về vị trí thứ 4 trong bảng xếp hàng bao phủ nợ. Trong khi thời điểm cuối năm 2022 MB có tỷ lệ bao phủ ở mức 238%, đứng ở vị trí thứ 2 chỉ sau Vietcombank.
TPBank cũng ghi nhận tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm từ 135% xuống còn 61%. LPBank và BIDV cùng có mức giảm 64 điểm % xuống lần lượt còn 78% và 153%.
Vietcombank tiếp tục giữ vị trí quán quân tỷ lệ bao phủ nợ xấu quý II với hơn 385%, tăng 68 điểm % so với cuối 2022. Theo sau là VietinBank với 169% dù giảm hơn 20 điểm %.
Ngay từ đầu năm, nhiều ngân hàng đặt kế hoạch kinh doanh 2023 một cách thận trọng. Giới chuyên gia nhìn nhận 2023 là năm nhiều thử thách đối với các ngân hàng khi phải tiếp tục san sẻ nguồn lực, chia khó với doanh nghiệp giữa bối cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại.
Tổng Hợp
(Dân Trí)