Nhìn từ bức tranh chung của nền kinh tế thế giới trong bối cảnh đại dịch Covid-19, có thể đánh giá vừa là điểm cộng và vừa là điểm trừ của phân khúc bất động sản công nghiệp tại Việt Nam.
Do ảnh hưởng của Covid-19 với quy mô toàn thế giới, hầu hết các ngành nghề đều chịu những thiệt hại sâu sắc. Mặc dù vậy, một xu hướng đầu tư đang dần được hình thành và có thể sẽ bùng nổ trong thời gian sắp tới, đó là sự xuất hiện của các vốn đầu tư ở trong nước cũng như là vốn ngoại vào các khu chế xuất và các khu công nghiệp. Đây có thể coi là một dấu hiệu rất tích cực cho lĩnh vực bất động sản nói riêng, và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Thực tế cho thấy, trong vòng ba năm vừa qua, bên cạnh bất động sản nhà ở, bất động sản công nghiệp cũng được đánh giá là một phân khúc nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia thị trường Việt Nam.
Có ba lý do để giải thích cho xu thế này: Thứ nhất sự ổn định về kinh tế, với tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế Việt Nam từ 6.5% đến 6.8%, tăng tương đối đều đều trong nhiều năm. Thứ hai là tốc độ đô thị hóa cũng tương đối lớn, hệ thống giao thông phát triển, đặc biệt là lực lượng lao động dồi dào với giá nhân công tương đối rẻ so với các nước trong khu vực. Thứ ba, Việt Nam được xem như là một trong những nước có thể chế chính trị ổn định nhất trên thế giới tại thời điểm hiện tại.
Đây điều có thể coi là những yếu tố quan trọng đối với các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư trong linh vực bất động sản công nghiệp. Thêm nữa, với việc là một quốc gia hiếm hoi trên thế giới thành công trong việc kiểm soát dịch bệnh Covid-19, Việt Nam có thể coi là điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu tư có thể xúc tiến nhanh việc tìm kiếm cơ hội tại các khu công nghiệp, nhà máy, trung tâm chế xuất… Trước đây, Trung Quốc là cái nôi và nhà máy của thế giới, nhưng những năm gần đây, xu hướng đang dần được dịch chuyển về phía các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Bất động sản công nghiệp – điểm hút dòng vốn trong mùa dịch
Theo TS. Sử Ngọc Khương, Giám đốc Cấp cao, Savills Việt Nam: “Chúng tôi đã và đang nhận rất nhiều yêu cầu của các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong việc tìm kiếm địa điểm tại các khu công nghiệp để đầu tư. Có nhiều nhóm nhà đầu tư muốn kinh doanh theo quy mô lớn để trở thành chủ đầu tư của cả khu công nghiệp, với nhu cầu tìm những quỹ đất từ 500ha đến 1000ha. Một bộ phận khác là các nhà sản xuất họ muốn đầu tư mở rộng diện tích nhà xưởng…
Trong đó, bên cạnh các thành phố lớn như TP.HCM, Hà Nội, các thành phố vệ tinh cũng đang được các nhà đầu tư chú trọng quan tâm, như Long An, Bình Dương. Đây điều là những tỉnh thành phố có vị trí thuận lợi, nguồn lực, nhân công dồi dào, cơ sở hạ tầng và giao thông thuận lợi cho việc vận chuyển, kho bãi lưu trữ và logistics tới các thành phố lớn”.
Ngoài ra, một trong những động lực lớn nhất trong năm 2019 vừa qua và năm 2020 là sự chủ động của Việt Nam trong việc gia nhập các FDA chủ chốt. Ông John Campbell, Quản lý bộ phận Bất động sản công nghiệp, Savills Việt Nam nhận định: “So với các quốc gia Đông Nam Á khác, Việt Nam tham gia tích cực hơn nhiều vào các hiệp định thương mại tự do, đồng nghĩa với việc được tiếp cận nhiều hơn với thị trường toàn cầu. Năm nay, chúng ta đã được cùng EU phê chuẩn nhiều hiệp định thương mại, hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam, giúp nước ta tiếp tục quá trình chuyển đổi từ lĩnh vực sản xuất sang các ngành công nghiệp giá trị cao hơn”.
Nhìn từ bức tranh chung của nền kinh tế thế giới trong bối cảnh đại dịch Covid-19, có thể đánh giá vừa là điểm cộng và vừa là điểm trừ của phân khúc bất động sản công nghiệp tại Việt Nam. Điểm cộng, dịch bệnh tạo động cơ thúc đẩy để các nhà đầu tư chuyển dịch mối quan tâm sang các thị trường khác thay vì thị trường Trung Quốc, trong đó có Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh chính trị thế giới đang có nhiều phức tạp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Còn điểm trừ là trong việc xúc tiến đầu tư thương mai đang gặp nhiều khó khăn, do việc cách ly xã hội, giao thông và liên lạc có nhiều cản trở. Về dài hạn, trong vòng từ 10 năm, 20 và 50 năm nữa, Việt Nam đang và sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ nhiều yếu tố trong đó có khách quan và chủ quan.
TS. Khương cũng nhận định: “Có một điểm mà tôi nghĩ rằng Chính phủ Việt Nam nên lưu ý khi chọn lựa các nhà đầu tư công nghiệp tại Việt Nam. Đó nên là những ngành nghề mang hàm lượng chất xám cao và các ngành nghề giảm bớt thâm dụng lao động. Và một điểm mà chúng ta cần lưu ý nữa là khi nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các khu công nghiệp, chúng ta cũng đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ công nhân viên người bản địa được học tập và tích lũy trình độ tay nghề cao hơn, để phục vụ cho việc phát triển kinh tế chung của đất nước sau này”.
Ông cũng cho rằng, nếu Việt Nam muốn phát triển lớn mạnh phân khúc bất động sản công nghiệp này, thì đồng thời cũng phải chú trọng đến việc phát triển hệ thống giao thông nội đô – inland transportation. Cụ thể, đó là hệ thống giao thông giúp các nhà máy vận chuyển hàng hóa từ thành phố này đến thành phố khác, kết hợp với hệ thông xuất cảnh hàng hóa ra nước ngoài và ngược lại. Cũng quan trọng không kém đó là vấn đề kho bãi cho quá trình hậu sản xuất thành phẩm hay nguyên liệu thô.
An Vũ