Năm 2024, Quốc hội đặt mục tiêu lạm phát ở mức 4% – 4,5%. Dù 6 tháng đầu năm nay lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát, nhưng giới chuyên gia cho rằng không thể chủ quan do vẫn còn nhiều biến số khó lường.
Lạm phát cơ bản có xu hướng tăng
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, bình quân 6 tháng đầu năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,75% so với cùng kỳ năm 2023, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 4,08%). Con số này cho thấy tuy Việt Nam không nằm trong nhóm nước có chỉ số CPI cao, nhưng tình hình thế giới vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp khó lường, ảnh hưởng tới nguồn cung nguyên vật liệu và đầu ra của hàng hóa nội địa.
Ở trong nước, bên cạnh các thuận lợi được kế thừa từ các năm trước, nền kinh tế đang phải chịu “tác động tiêu cực kép” từ những yếu tố bất lợi bên ngoài và những hạn chế, bất cập bên trong; thuận lợi và thách thức đan xen nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn, nhất là trong điều hành kinh tế vĩ mô, vừa phải kiểm soát lạm phát, vừa phải thúc đẩy tăng trưởng.
Lạm phát mặc dù được kiểm soát trong ngưỡng mục tiêu nhưng lạm phát cơ bản có xu hướng tăng cao suốt từ đầu năm 2021 đến đầu năm 2023 và từ giữa năm 2022 đến nay.
Cùng với đó, công tác điều hành giá, kiểm soát lạm phát đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn, sức ép như cùng lúc phải chịu tác động kép giữa thay đổi chính sách điều hành của các nước trên thế giới, biến động giá cả hàng hóa cơ bản toàn cầu, và việc thực hiện lộ trình điều chỉnh giá nhiều mặt hàng thiết yếu (điện, nước…), giá dịch vụ công, điều chỉnh lương…
Ngoài ra, về mặt chính sách tổng thể, các chính sách vĩ mô trong nước phải vừa góp phần kiểm soát lạm phát nhưng đồng thời cũng cần phải hỗ trợ phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Những vấn đề này đòi hỏi chính sách điều hành giá, công tác kiểm soát lạm phát phải luôn chủ động, bám sát, thay đổi linh hoạt phù hợp với tình hình thực tiễn; sẵn sàng các kịch bản và giải pháp ứng phó cho từng tình huống phát sinh; xác định trọng tâm, trọng điểm ưu tiên để linh hoạt lựa chọn thứ tự ưu tiên phù hợp với từng trường hợp phát sinh nhằm ban hành chính sách điều hành phù hợp.
Từ đó, đặt ra yêu cầu, đòi hỏi sự phối hợp sát sao của các bộ, ngành trong việc chia sẻ, cung cấp thông tin, nhất quán trong mục tiêu chính sách, đánh giá tác động, mức độ ảnh hưởng của chính sách để điều phối công tác phối hợp điều hành chính sách hài hòa, hiệu quả.
Nhiều biến số khó lường
Được biết, năm 2024 Quốc hội đặt mục tiêu lạm phát ở mức 4% – 4,5 %. Dù 6 tháng đầu năm nay lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát, nhưng không thể chủ quan do vẫn còn nhiều biến số khó lường.
Nhiều tổ chức quốc tế dự báo tăng trưởng kinh tế giới năm 2024 thấp hơn năm 2023. Dự báo từ nay đến cuối năm vẫn còn nhiều yếu tố gây áp lực lên mặt bằng giá, khi giá các nhóm mặt hàng nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng thiết yếu, như giá xăng dầu dự báo tiếp tục diễn biến khó lường. Trong đó, giá lương thực, thực phẩm toàn cầu từ tháng 3 đến nay tăng liên tục sau 7 tháng giảm liên tiếp. Giá dầu Brent trung bình 6 tháng cuối năm dự báo trong khoảng 80 – 90 USD/thùng. Bên cạnh đó, giá nguyên vật liệu đầu vào thế giới đang ở mức cao cũng ảnh hưởng tới giá cả mặt bằng trong nước. Bối cảnh này càng tạo thêm áp lực khiến lạm phát mặc dù đã hạ nhiệt nhưng vẫn dai dẳng tại nhiều nước và tiềm ẩn nguy cơ bùng phát trở lại.
Ngoài ra, lo ngại giá dịch vụ vận chuyển hàng hoá bằng đường biển và phụ thu đối với hàng hóa container tại cảng biển đang tăng mạnh gây áp lực đến chi phí của doanh nghiệp. Việc thực hiện lộ trình giá thị trường, tính đúng tính đủ chi phí trong giá các hàng hóa dịch vụ do nhà nước định giá tiếp tục là vấn đề cần xem xét thực hiện trong năm 2024 – đây cũng là yếu tố gây áp lực lên mặt bằng giá.
Một số ngân hàng trung ương tại châu Á (như Indonesia, Nhật Bản…) phải điều chỉnh tăng lãi suất để hạn chế biến động dòng vốn và tỷ giá trong ngắn hạn. Thiên tai, biến đổi khí hậu… tiếp tục tác động nặng nề tới nhiều khu vực và quốc gia trên toàn cầu, điều đó tác động tới lạm phát.
Trong nước, những diễn biến khó lường của tình hình thế giới và khu vực tạo ra nhiều khó khăn, thách thức đối với kinh tế trong nước, cộng hưởng với những vấn đề nội tại của nền kinh tế chưa được xử lý triệt để, nên sẽ tác động tới lạm phát.
Lạm phát có thể tiếp tục tăng do biến động nguồn cung, giá cả thế giới; do dự kiến điều chỉnh giá điện, dịch vụ giáo dục, y tế, thực hiện chính sách cải cách tiền lương… chưa kể còn do nhu cầu sử dụng điện, vận tải hành khách… trong nước tăng khi vào mùa cao điểm nắng nóng và du lịch hè, mà hiện đang là mùa cao điểm.
Tỷ giá dự báo tiếp tục chịu áp lực điều chỉnh do sức ép từ bên ngoài. Tâm lý thị trường do kỳ vọng lạm phát, tỷ giá tăng là vấn đề cần quan tâm, nhất là liên quan đến việc điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất, tăng giá hàng hóa, dịch vụ… Do đó, lạm phát là vấn đề cần đặc biệt lưu ý, theo dõi sát để có giải pháp điều hành giá chặt chẽ, thận trọng, phù hợp, kịp thời.
Ngược lại, có một số yếu tố thuận lợi cho việc kiềm chế lạm phát trong 6 tháng cuối năm. Cụ thể, lạm phát toàn cầu đang tiếp tục xu hướng hạ nhiệt, giúp Việt Nam giảm bớt áp lực từ kênh nhập khẩu lạm phát.