Năm 2023, tăng trưởng GDP thế giới được nhiều tổ chức dự báo giảm so với năm 2022, trong đó một số nền kinh tế dự báo sẽ suy thoái.
Tổ chức OECD (tháng 11/2022) dự báo tăng trưởng GDP thế giới sẽ giảm từ 3,1% năm 2022 xuống 2,2% năm 2023; trong đó, tăng trưởng kinh tế Mỹ giảm từ 1,8% năm 2022 xuống 0,5% năm 2023; khu vực Euro từ 3,3% xuống 0,5%, trong khi kinh tế Trung Quốc tăng từ 3,3% lên 4,6%. Lạm phát toàn cầu cũng được dự báo giảm với CPI toàn cầu từ mức tăng 8,8% năm 2022 xuống khoảng 6,5% năm 2023 và 4% năm 2024. Tuy nhiên, các ý kiến rất khác nhau về khả năng kinh tế thế giới có giảm đến mức suy thoái hay không, và nếu suy thoái thì quy mô, thời điểm và thời gian kéo dài như thế nào. Sự không đồng thuận về suy thoái kinh tế thế giới trước hết do không có một quy luật chung cho các lần suy thoái từ trước đến nay, rất khác nhau về tính chất, thời gian và cũng rất khác nhau giữa các nước.
Tuy nhiên, có thể rút ra bốn nhận định chung về suy thoái kinh tế thế giới thời gian qua như sau: (i) thời gian trung bình các lần suy thoái có xu hướng ngắn lại (nếu tính từ năm 1885, suy thoái kéo dài trung bình 17 tháng, nhưng nếu tính từ Thế chiến II, suy thoái chỉ kéo dài trung bình khoảng 10 tháng). Tuy nhiên, thời gian các lần suy thoái rất khác nhau, ngắn nhất có thể là 3 tháng và dài nhất lên đến 43 tháng (Đại khủng hoảng 1930-1933); (ii) Mỹ có mặt trong tất cả các lần thế giới suy thoái (do đó, suy thoái kinh tế Mỹ thường được hiểu là có thể dẫn đến suy thoái kinh tế thế giới); (ii) nguyên nhân suy thoái không giống nhau (có thể do cú sốc cắt giảm sản lượng dầu, đại dịch Covid-19, hoặc bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính năm 2008-2009…); (iv) các chỉ số về hoạt động kinh tế có xu hướng chậm lại trong 1,5-2 năm trước khi xảy ra suy thoái toàn cầu.
Đánh giá khả năng suy thoái kinh tế thế giới trong năm 2023
Nhóm nghiên cứu đánh giá khả năng suy thoái kinh tế thế giới thông qua đánh giá khả năng suy thoái đối với một số nền kinh tế lớn, bao gồm: Mỹ (chiếm 21,3% GDP thế giới 2022), khu vực EUR (11,9% GDP thế giới), Anh (2,7% GDP thế giới), Nhật Bản (3,7% GDP thế giới) và Trung Quốc (17,2% GDP thế giới). Do chiếm tỷ trọng lớn (gần 57%) trong GDP thế giới, biến động của các nền kinh tế này thường gắn liền với biến động kinh tế thế giới.
Nhóm nghiên cứu định nghĩa suy thoái như sau: (i) đối với kinh tế thế giới là khi tăng trưởng GDP cả năm dưới 1% (đây cũng là định nghĩa của WB), theo đó gần đây thế giới đã hai lần suy thoái kinh tế vào năm 2008-2009 và năm 2020; (ii) đối với các nước phát triển (Mỹ, khu vực EUR, Anh và Nhật Bản) là khi tăng trưởng GDP cả năm âm; và (iii) với Trung Quốc là khi tăng trưởng GDP cả năm thấp hơn đáng kể xu thế dài hạn.
Việc đánh giá khả năng suy thoái của từng nền kinh tế sẽ dựa trên một số chỉ số kinh tế và tài chính. TS. Cấn Văn Lực và Nhóm chuyên gia Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV quan sát thấy các chỉ số này thường giảm thấp (hoặc tăng cao tùy theo chỉ số) trước và trong khi suy thoái xảy ra. Để đảm bảo thống nhất và khách quan trong đánh giá, một chỉ số sẽ chỉ báo suy thoái khi giảm thấp (hoặc tăng cao) đến ngưỡng nhất định, ngưỡng này xác định bằng tiêu chuẩn thống kê mà do giới hạn bài viết Nhóm chuyên gia không thể nêu chi tiết.
Thị trường lao động: ngoại trừ Trung Quốc đang có tỷ lệ thất nghiệp ở mức trung bình, các nước đều đang có tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp. Như vậy, tỷ lệ thất nghiệp chưa chỉ báo suy thoái kinh tế đối với nước nào; thậm chí đang chỉ báo là tăng trưởng kinh tế đối với Mỹ, khu vực EUR, Anh và Nhật Bản với tỷ lệ đang ở mức thấp so với trung bình dài hạn. Tuy nhiên, cũng có điểm cần lưu ý là thị trường lao động thay đổi đáng kể (ra vào nhanh hơn) nên số liệu này cũng không phản ánh chính xác hoàn toàn.
(2) Sản xuất công nghiệp (SXCN): ngoại trừ Trung Quốc đang có tốc độ tăng SXCN ở mức thấp (tính đến tháng 11/2022 là 4,2%, thấp hơn đáng kể mức trung bình dài hạn là 10%), các nước đều đang có tốc độ tăng SXCN ở mức trung bình. Chẳng hạn như Mỹ, tốc độ tăng sản xuất công nghiệp tính đến tháng 11/2022 là 2,5%, so với mức trung bình dài hạn là khoảng 1%. Như vậy, SXCN đang chỉ báo suy thoái kinh tế nhẹ đối với Trung Quốc (chủ yếu là do áp dụng chính sách zero-Covid), nhưng chưa chỉ báo suy thoái kinh tế đối với Mỹ, khu vực EUR, Anh và Nhật Bản.
(3) Niềm tin kinh doanh và tiêu dùng: Chỉ số niềm tin kinh doanh ở Mỹ, khu vực EUR và Trung Quốc mặc dù đang có xu hướng giảm đều đang ở mức trung bình dài hạn, chưa cho thấy nguy cơ suy thoái. Tuy nhiên, chỉ số niềm tin tiêu dùng đang ở mức thấp tại tất cả các nước hay khu vực, chỉ báo nguy cơ suy thoái.
(4) Doanh số bán lẻ: ngoại trừ Mỹ và Nhật Bản đang có tốc độ tăng doanh số bán lẻ ở mức trung bình và trên mức trung bình, các nước, khu vực khác đều có doanh số bán lẻ liên tục giảm trong nhiều tháng. Như vậy, doanh số bán lẻ đang chỉ báo suy thoái kinh tế cho Anh, khu vực EUR và Trung Quốc.
(5) Thị trường bất động sản: trong năm 2008-2009 giá nhà tại Mỹ và Anh đã giảm mạnh, giảm khoảng 20%. Hiện nay giá nhà tại Mỹ (chỉ số Case Shiller) tính đến tháng 10/2022 vẫn tăng 8,6% và tại Anh (chỉ số Halifax) tính đến tháng 11/2022 vẫn tăng 4,7% so với cùng năm trước. Như vậy, thị trường bất động sản tại Anh và Mỹ chưa chỉ báo suy thoái, tuy nhiên cũng cho thấy rủi ro, nguy cơ “điều chỉnh giảm” trong ngắn hạn tại hai nước này như đang diễn ra tại một số quốc gia.
Các chỉ số về tài chính:
(6) Lợi suất trái phiếu Chính phủ (TPCP): Đường cong lợi suất TPCP chỉ báo suy thoái kinh tế khi lợi suất kì hạn ngắn cao hơn kì hạn dài (gọi là đường cong lợi suất đảo ngược). Cập nhật đến thời điểm bài viết này, chênh lệch lợi suất TPCP giữa kỳ hạn 10 năm và kỳ hạn 2 năm là âm 59,2 bp (điểm cơ bản) đối với Mỹ; dương 48 bp đối với khu vực EUR; dương0,6 bp đối với Anh; dương 40,5 bp đối với Nhật Bản; và dương 51,2 bp đối với Trung Quốc. Như vậy, đường cong lợi suất TPCP đang chỉ báo suy thoái kinh tế đối Mỹ nhưng chưa chỉ báo suy thoái đối với nước/khu vực còn lại.
(7) Thị trường chứng khoán (TTCK): mặc dù các TTCK lớn có xu hướng giảm (từ 15-20%) kể từ đầu năm 2022 đến nay, nhưng một số chỉ số chính vẫn đang ở mức cao (Dow Jones và Nikkei) hoặc ít nhất đang ở mức trung bình (STOXX 50, FTSE 100 và Shanghai). Đồng thời, chỉ số biến động TTCK Mỹ (VIX) cho thấy TTCK Mỹ mặc dù đang kém ổn định hơn giai đoạn trước dịch Covid-19 nhưng vẫn ổn định hơn nhiều so với thời điểm suy thoái 2008-2009 và 2020. Do đó, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm chuyên gia Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đánh giá TTCK chưa chỉ báo suy thoái ở các nước, thậm chí vẫn còn tích cực đối với Mỹ và Nhật Bản.
Năm 2023, Việt Nam được dự báo có tăng trưởng GDP giảm so với năm 2022 xuống còn khoảng 6-6,5%, do xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng và du lịch quốc tế phục hồi chậm lại trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái nhẹ, cục bộ như nêu trên. Trong khi đó, lạm phát (CPI) bình quân dự báo tăng so với năm 2022 lên mức 4-4,5%, chủ yếu do tăng lương cơ sở và giá một số hàng hóa thiết yếu do Nhà nước quản lý (điện, dịch vụ y tế, giáo dục..), do độ trễ tác động của giá nhập khẩu mặc dù là giá cả, lạm phát toàn cầu đã qua đỉnh và đang tăng chậm lại trong năm 2023.
Tổng Hợp
(TS. Cấn Văn Lực và Nhóm chuyên gia Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV)