Vì sao Việt Nam trở thành ‘ngôi sao’ khi kinh tế toàn cầu đang suy giảm? Việt Nam đang có được ảnh hưởng ngày càng lớn trong chuỗi sản xuất giá trị gia tăng toàn cầu…
Theo Tiến sĩ Burkhard Schrage – Giảng viên cấp cao, chủ nhiệm bộ môn Quản trị và chương trình MBA, Trường Đại học RMIT Việt Nam, năm 2022 là một năm bản lề đối với Việt Nam trên nhiều phương diện hoạt động kinh tế. Có thể nói, năm 2022 là một phép thử kinh tế, rằng: Việt Nam có thể phục hồi các hoạt động kinh tế cốt lõi về mức trước đại dịch hay không? Doanh nghiệp và cấp quản lý tại Việt Nam có tiếp thu và triển khai được những bài học kinh nghiệm từ đại dịch hay chưa?
“Câu trả lời thống nhất cho những câu hỏi này là có. Việt Nam nổi lên là một nền kinh tế mạnh mẽ hơn và kiên cường hơn trong năm 2022. Doanh nghiệp trong tất cả các lĩnh vực đã trở nên linh hoạt và cạnh tranh hơn trong khu vực cũng như trên toàn cầu. Quả thực, Việt Nam là một điểm sáng trong bức tranh kinh tế thế giới đầy thách thức. Việt Nam không chỉ tăng trưởng tốt trong đại dịch COVID-19 mà còn vượt trội so với các nước khác trong khu vực vào năm 2022” – Tiến sĩ Burkhard Schrage nói.
Xét theo tổng sản phẩm quốc nội (GDP), nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng 8,8% trong 9 tháng đầu năm 2022. Tốc độ tăng trưởng thậm chí còn tăng tốc trong suốt năm 2022, với đỉnh điểm là 13,7% trong quý III năm nay. Kết quả này củng cố vị thế hàng đầu của Việt Nam ở châu Á trong 12 tháng qua và là lý do tại sao Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) gọi Việt Nam là điểm sáng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm.
Bà Nguyễn Ngọc Hồng Trâm – Trợ lý nghiên cứu, Trường Đại học RMIT Việt Nam – cho rằng, sự phục hồi mạnh mẽ sau COVID trong suốt cả năm không phải là điều hiển nhiên. Để giải quyết áp lực lạm phát đến từ chi phí năng lượng tăng và giá hàng hóa và thực phẩm tăng, Chính phủ đã quyết định tăng lãi suất trong những tháng qua. Tăng trưởng kinh tế nhanh trong môi trường lãi suất cao là một thành tựu đáng nể.
Tại sao Việt Nam có thể tăng trưởng trong môi trường lạm phát và lãi suất cao như vậy? Bà Hồng Trâm lý giải, khu vực công và tư nhân của Việt Nam đã nhanh chóng áp dụng chiến lược quốc gia chung sống với COVID-19, giảm bớt các hạn chế về đại dịch cho doanh nghiệp và người dân, đồng thời chứng kiến mức tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ trong nửa đầu năm 2022. Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội được Chính phủ giới thiệu vào đầu năm 2022 là rất kịp thời. Chương trình này tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, công nghệ thông tin, chuyển đổi số và các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu.
Hai chuyên gia của Trường Đại học RMIT Việt Nam đều có chung nhận định, phần lớn tăng trưởng kinh tế là nhờ chi tiêu của hộ gia đình và chính phủ tăng. Tiêu dùng hộ gia đình tăng, báo hiệu niềm tin của người tiêu dùng tiếp tục tăng trong suốt cả năm.
Năm 2022 cũng khẳng định bước chuyển quan trọng trong hành vi của người tiêu dùng, họ rất sẵn sàng chuyển sang hình thức mua sắm trực tuyến. Theo số liệu khảo sát, hiện nay có gần 60% người dân Việt Nam cân nhắc mua sắm trực tuyến vì sự tiện lợi của nó.
Điều quan trọng không kém là doanh nghiệp đã thích ứng với những hành vi tiêu dùng mới này bằng cách đẩy mạnh chuyển đổi số các quy trình và thậm chí cả mô hình kinh doanh. Việt Nam đã tăng 4 bậc lên vị trí thứ 5 ở Đông Nam Á trong một báo cáo gần đây về sức hấp dẫn của hệ sinh thái khởi nghiệp. Kết quả này một phần là nhờ chương trình chuyển đổi số quốc gia được phê duyệt từ năm 2020 – chương trình này đã nâng cao nhận thức của các tổ chức công và tư nhân trong việc thực hiện các chiến lược và quy trình kỹ thuật số.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam đã thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 11 tháng đầu năm 2022, giảm 5% so với cùng kỳ. Hai yếu tố khiến vốn đăng ký giảm là các biện pháp phòng ngừa dịch COVID-19 vào đầu năm 2022 và bất ổn toàn cầu.
Tuy nhiên, tỷ lệ FDI dành cho các hoạt động công nghệ cao và có giá trị gia tăng cao lại tăng. FDI vào các dự án sản xuất phức hợp hoặc nghiên cứu và phát triển (R&D) là dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang chiếm được một phần ngày càng lớn trong chuỗi sản xuất giá trị gia tăng toàn cầu. Loại hình sản xuất này sẽ là động lực chính để Việt Nam tăng trưởng kinh tế xã hội trong những thập kỷ tới.
Số liệu Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố hồi tháng 10/2022 cho thấy thu nhập bình quân đầu người của Đài Loan năm nay lên cao hơn 2 nước hàng đầu Đông Á là Hàn Quốc (33.590 USD, giảm 4% so với năm 2021) và Nhật (34.360 USD, giảm 12% so với năm 2021). Không chỉ là một xã hội giàu có, thu nhập cao, Đài Loan còn có mặt trong danh sách tài sản cá nhân lớn thuộc hàng nhất thế giới (net financial assets per capita) theo một đánh giá của Allianz. Con số tài sản ròng của một người Đài Loan, tính trung bình, là 138.220 euro, cao hơn một chút so với người Singapore (134.150 euro).
Có thể thấy hình mẫu tăng trưởng của Đài Loan là đáng học hỏi cho nhiều nền kinh tế trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, động lực chính thúc đẩy sự thành công của “mô hình Đông Á” đã không còn. Tốc độ tăng trưởng dân số, tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang chậm lại ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng thương mại. Các quốc gia vốn lấy xuất khẩu là động lực tăng trưởng kinh tế sẽ không còn gặt hái được nhiều thành công. Trong khi rất nhiều quốc gia tiếp tục chọn xuất khẩu làm động lực tăng trưởng kinh tế, hậu quả là các quốc gia sẽ cạnh tranh gay gắt hơn.
Hơn 2 thập niên qua, Việt Nam nổi lên là hiện tượng thú vị của châu Á khi duy trì đà tăng trưởng cao liên tục. Dù vậy, theo Giáo sư David Dapice thuộc Đại học Harvard, cỗ máy tăng trưởng cũ đứng trước nguy cơ lạc nhịp. Điển hình là giá trị gia tăng từ xuất khẩu tạo ra bởi khối doanh nghiệp trong nước còn thấp. Năng suất ngành sản xuất trên một đơn vị lao động tăng chậm hơn so với mức trung bình của nền kinh tế trong giai đoạn 2016-2021.
Tỉ trọng đóng góp của khối tư nhân trong GDP chỉ chiếm 10-11%, tức chỉ bằng 1/3 của Thái Lan và thấp hơn nhiều so với Trung Quốc (60%). Hơn thế nữa, nguồn lao động dồi dào ở nông thôn vốn là nguồn cung ứng lao động chính cho sản xuất và dịch vụ dự kiến sẽ không còn. Nguy cơ này đe dọa kết thúc chu kỳ thu hút FDI dựa trên thế mạnh về lao động dồi dào.
Mới đây, Ngân hàng HSBC nhận định kinh tế Việt Nam có thể gặp nhiều thách thức trong năm 2023, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tới các rủi ro của thị trường xuất khẩu. Bằng chứng là xuất khẩu tháng 11 giảm 7,4% so với cùng kỳ năm trước, giảm nhiều hơn so với dự báo của HSBC và thị trường. “Đây là lần đầu tiên trong vòng 2 năm Việt Nam ghi nhận mức sụt giảm đáng kể so với cùng kỳ năm trước trong tăng trưởng xuất khẩu, chủ yếu do tình hình suy giảm ở tất cả các lĩnh vực”, báo cáo của HSBC nhận định.
“Giai đoạn nhạy cảm sắp tới có thể là thời khắc quyết định triển vọng dài hạn. Việt Nam có thể phải tìm một mô hình mới để duy trì sự hứng khởi”, Giáo sư David Dapice nhận định. “Việt Nam đang có khoảng thời gian 5-7 năm để điều chỉnh mô hình tăng trưởng”, ông nói thêm.
Cụ thể, nên tiếp tục mở cửa nền kinh tế và mở rộng tiếp cận các không gian tự do thương mại mới. Nền kinh tế cũng cần cải thiện năng suất lao động. “Chiến lược phát triển của Việt Nam có thể học tập mô hình của Đài Loan, trong đó thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng lực dưới sự hỗ trợ của Chính phủ. Việt Nam đồng thời có thể bắt tay với các doanh nghiệp FDI lớn để trở thành nhà cung ứng có tính cạnh tranh”, Giáo sư Dapice chia sẻ.
Hướng đi có thể là hợp lý khi Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với nền tảng công nghệ và sức sáng tạo ở mức khiêm tốn. Mục tiêu trở thành một quốc gia công nghiệp và thịnh vượng không thể diễn ra một sớm một chiều mà cần một giai đoạn chuyển đổi sâu rộng, vừa làm vừa bắt chước hình mẫu đi trước tương tự như câu chuyện của Đài Loan.
Một tín hiệu tích cực là Việt Nam hiện nổi lên là đích đến của các tập đoàn công nghệ đa quốc gia như Samsung, Apple với mong muốn giảm bớt sự lệ thuộc vào công xưởng Trung Quốc. Theo VinaCapital, FDI hướng tới công nghệ cao sẽ hỗ trợ lĩnh vực sản xuất, đồng thời thúc đẩy sự gia tăng mức độ phức tạp của các sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam. Điều này có ý nghĩa rất lớn vì sự gia tăng mức độ phức tạp của các sản phẩm mà một quốc gia có thể sản xuất là yếu tố quan trọng nhất tạo động lực tăng trưởng mạnh mẽ cho nền kinh tế của một quốc gia đang phát triển, theo nghiên cứu mới được công bố của các nhà kinh tế tại Đại học Harvard.
Tổng Hợp
(Tiền Phong, Brands)