Với ngân hàng khi thu hồi nợ, giải pháp cuối cùng và cũng là giải pháp bất đắc dĩ nhất là khởi kiện ra tòa. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng TMCP cho hay, dù đã nộp đơn kiện nhiều năm, nhưng vẫn không được tòa thụ lý, khiến ngân hàng rất mệt mỏi.
Hiện nay, nhiều ngân hàng cho vay cầm cố sổ tiết kiệm. Theo quy định pháp luật, tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân, người gửi là người sở hữu, được tự mình thực hiện các giao dịch liên quan đến tiền gửi tiết kiệm, mà không cần có sự đồng ý của chồng hoặc vợ. Do pháp luật không yêu cầu, nên ngân hàng cũng không thể biết tài sản nào là tài sản chung, tài sản nào là tài sản riêng của vợ/chồng. Tuy nhiên, theo quan điểm của tòa án, mọi giao dịch liên quan đến tài khoản ngân hàng đều cần có ý kiến định đoạt của bên vợ hoặc chồng, nên khi có khiếu kiện của vợ hoặc chồng về tài sản, một số tòa tuyên hợp đồng thế chấp hợp pháp của ngân hàng là vô hiệu. Điều này gây rủi ro lớn cho ngân hàng.
Ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng cho biết, hiện nay, có hàng triệu tỷ đồng tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi dân cư. Thực tế, trong các tranh chấp vợ chồng liên quan đến cầm cố sổ tiết kiệm, có tòa án đồng ý ngân hàng là bên thứ ba ngay tình, có tòa án lại phản bác. “Nếu tất cả tòa án đều coi ngân hàng không phải là bên thứ ba ngay tình, thì cả hệ thống ngân hàng có nguy cơ bị sập”, ông Hùng khuyến cáo.
Theo các ngân hàng, việc tòa án kéo quá dài quá trình xử lý khiến các con nợ chây ỳ do cảm thấy công cụ thực thi pháp luật không hiệu quả.
Chưa kể, nhiều phán quyết của tòa đưa ra khiến ngân hàng dở khóc dở cười. Đơn cử, mới đây, Tòa án Nhân dân quận Thanh Xuân (Hà Nội) trong một vụ án liên quan đến Công ty 116 đã xác định BIDV không phải là ngân hàng bảo lãnh thanh toán của Công ty 116, song phán quyết lại yêu cầu BIDV phải thanh toán cho Công ty X (chủ nợ của Công ty 116), nếu trường hợp Công ty 116 không còn tiền.
Một trường hợp khác, Agribank được Tòa án Nhân dân quận 7 (TP.HCM) trao quyền xử lý tài sản là cổ phần, cổ phiếu của Công ty A. Tuy nhiên, do số cổ phần, cổ phiếu này không phải là tài sản đảm bảo, nên ngân hàng cũng bó tay, không thể xử lý.
Trước bức xúc của các ngân hàng, Chánh án Tòa án Nhân dân Đống Đa (Hà Nội) phân trần: Tòa án Đống Đa hiện có tới 500 vụ án cần xét xử, song chỉ có 15-16 thẩm phán, nên việc chậm là đương nhiên. Vị chánh án này bức xúc rằng, ngân hàng không chịu hòa giải với con nợ, mà cứ đòi khởi kiện. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại phản ứng cho rằng, con nợ không hợp tác, không có thiện chí trả nợ, thì ngân hàng mới phải kiện ra tòa, Chánh án nói như vậy là không hợp lý.
Một bất cập nữa liên quan đến thủ tục phá sản. Lãnh đạo Ngân hàng Vietcombank cho hay, nhiều trường hợp, ngân hàng yêu cầu mở thủ tục phá sản với doanh nghiệp để thu hồi nợ, song 5 năm chưa được tòa án giải quyết.
Về vấn đề này, Tòa án Hà Nội thừa nhận, 90% vụ việc liên quan đến phá sản vẫn chưa thể giải quyết, do hướng dẫn của Tòa án Nhân dân tối cao chưa rõ.
Có trường hợp, tòa tuyên ngân hàng phải trả lại giấy chứng nhận đã được thế chấp hợp pháp và khoản vay đã được thẩm định theo đúng quy định. Nguyên nhân là bởi thẩm phán cho rằng, khi ký hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm cho khoản tiền vay, các tổ chức tín dụng không tiến hành thẩm định tài sản thế chấp theo đúng quy định, không xác định được tài sản thế chấp là của ai, nên tuyên hợp đồng thế chấp vô hiệu. Các trường hợp này thường liên quan đến tranh chấp giữa chủ mới và chủ cũ, quan hệ thừa kế…
Cũng có trường hợp, khách hàng đã tất toán khoản vay cho ngân hàng, nhưng tòa án tuyên buộc ngân hàng phải hoàn trả số tiền này, vì cho rằng, đây là số tiền khách hàng chiếm đoạt từ người khác. Điều này rất vô lý vì ngân hàng không có năng lực, điều kiện thẩm định nguồn tiền trả nợ của khách hàng. Trên hết, không có quy định nào yêu cầu ngân hàng phải kiểm tra nguồn tiền trả nợ của khách hàng.
Đại diện pháp chế các ngân hàng cho rằng, nhiều tòa án đã bác bỏ quyền được bảo vệ của người thứ ba ngay tình là các ngân hàng.
Cụ thể, tòa án nhận định ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng không đúng quy định pháp luật, tuyên hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp vô hiệu khi giấy tờ, tài liệu khách hàng cung cấp cho ngân hàng không đảm bảo tính pháp lý (làm giả chữ ký, giả giấy tờ, tài liệu…). Tuy nhiên, theo quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, thì khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp của các tài liệu gửi cho tổ chức tín dụng. Ngân hàng không có nghĩa vụ phải chứng minh những giấy tờ, tài liệu mà khách hàng cung cấp là giả. Trong trường hợp này, lẽ ra, ngân hàng phải được xác định là người thứ ba ngay tình.
Song, theo hướng dẫn của Tòa án Nhân dân tối cao (Công văn 02/TANDTC-PC 2021), trong trường hợp trên, ngân hàng không được chấp nhận là “người thứ ba ngay tình”.
Công văn 02 của Tòa án Nhân dân tối cao đưa ra ví dụ: nhà đất thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông A, bà B. Ông A làm giả chữ ký của bà B để chuyển nhượng nhà đất cho C. Sau khi chuyển nhượng, ông A, bà B vẫn chiếm hữu, sử dụng nhà đất. Tiếp sau, C dùng tài sản này để thế chấp khoản vay tại Ngân hàng. Trong trường hợp đó, hợp đồng chuyển nhượng tài sản và hợp đồng thế chấp đều vô hiệu.
Tổng Hợp