Lợi nhuận của ngân hàng cũng có thể bị ảnh hưởng trong các năm sau nếu vấn đề nợ xấu không được giải quyết triệt để do tác động có độ trễ của nền kinh tế. Nhiều khách hàng đã không còn khả năng trả nợ vì cửa hàng kinh doanh phải đóng cửa, doanh nghiệp dừng hoạt động khiến nguồn thu bị đứt đoạn.
Giãn nợ, hoãn nợ hay giảm lãi suất có thể giúp doanh nghiệp trì hoãn hoặc giảm bớt phần nào các nghĩa vụ thanh toán trong ngắn hạn nhưng lại không phải là biện pháp căn cơ có thể khiến cho các doanh nghiệp “sống” và “sống khoẻ”.
Cơ cấu nợ theo Thông tư 01, giải pháp được đánh giá cao và thiết thực hiện nay, cũng có những mặt trái của nó với chính các ngân hàng. Điểm tích cực là NHNN đã nhận ra được vấn đề nhiều khách hàng sẽ không có khả năng trả nợ như bình thường và có nguy cơ nhảy nhóm. Và một khi doanh nghiệp bị xếp vào nhóm nợ xấu thì sẽ rất khó khăn để vay tiền, thậm chí phải vay với lãi suất rất cao. Do vậy, Thông tư 01 cho phép các ngân hàng được cơ cấu lại và giữ nguyên nhóm nợ.
Cùng với đó, theo thông tư sửa đổi các ngân hàng sẽ không phải trích lập dự phòng cụ thể cao như bình thường mà trích dần trong lộ trình 3 năm để hạch toán. Chính sách này giúp hỗ trợ các doanh nghiệp và ngân hàng nhưng đồng thời cũng thổi phồng lợi nhuận của ngân hàng lên và không phải nhà băng nào cũng lựa chọn như vậy. Các ngân hàng cũng đã chủ động “phòng thủ” hơn khi đưa tỷ lệ bao phủ nợ xấu (dự phòng rủi ro trên số dư nợ xấu) lên cao, có nơi lên tới 200% đến hơn 300%. Bản chất của con số này là để dành lợi nhuận để giảm sốc khi nợ xấu không thể thu hồi.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng những con số này chỉ đẹp trên sổ sách và chỉ ảnh hưởng tới lợi nhuận ngân hàng mà không thực sự đi vào bản chất xử lý các khoản nợ xấu. Đối với một doanh nghiệp đang ở nợ nhóm 4, nếu không có biện pháp để giải cứu thì nợ sẽ nhảy sang nhóm 5, gần như không thể thu hồi được và ngân hàng phải bỏ 100% “tiền túi” từ dự phòng để giải quyết. Giảm lãi suất cũng vậy, nhìn một cách khách quan, ngân hàng đang “cắt máu” của chính mình để hỗ trợ doanh nghiệp nhưng mức hỗ trợ chỉ giảm được một phần nhỏ và không thể kéo dài mãi mãi.
Về cơ bản, tình hình doanh nghiệp xấu đi thì ngân hàng cũng sẽ không tốt mãi được. Hệ thống tài chính không phải là nơi có được những giải pháp hoàn hảo cho sự sống của doanh nghiệp.
Lợi nhuận của ngân hàng cũng có thể bị ảnh hưởng trong các năm sau nếu vấn đề nợ xấu không được giải quyết triệt để do tác động có độ trễ của nền kinh tế. Theo báo cáo mới đây của Chính phủ, tỷ lệ nợ xấu nội bảng tại các ngân hàng vào cuối tháng 6 vào khoảng 1,78% – 2%, nhưng đó là chưa kể các khoản nợ đã bán cho VAMC và nợ đã thực hiện các biện pháp phân loại nợ. Nếu tính cả số nợ trên, tỷ lệ nợ xấu hệ thống lên 2,91% – 3,15% (không gồm nợ xấu của các ngân hàng yếu kém). Con số nợ xấu tiềm ẩn này được dự báo có thể tăng lên 4,56% – 4,98% vào cuối năm 2021 và có thể lên đến xấp xỉ 5% nếu kinh tế chậm phục hồi.
Chuỗi cung ứng bị đứt gãy, doanh nghiệp phải dừng hoạt động,… những chính sách kiểm soát dịch bệnh được áp dụng đã và đang ảnh hưởng vô cùng lớn đến doanh nghiệp và ngấm dần sang các ngân hàng, nơi trung chuyển vốn của nền kinh tế. Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính, nhận tiền gửi của khách hàng và cho vay ra nền kinh tế, sau đó chờ đợi tiền quay trở lại để trả cho người gửi, trở thành một vòng xoay của vốn.
Nếu cho vay ra mà người vay lại không trả được nợ thì vòng xoay vốn sẽ bị tắc nghẽn, đứt đoạn, trong khi người gửi tiền có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào dẫn đến áp lực thanh khoản. Điều đó có thể không khiến ngân hàng gục ngã nhưng lại làm mất đi nhiều triển vọng trong tương lai khi ngân hàng là nhóm chịu ảnh hưởng chậm pha hơn so với các doanh nghiệp trước những tác động tiêu cực từ dịch COVID-19.
Nhật Hạ
(Tổng Hợp)