Nhiều nhà đầu tư nhận định đây là thời cơ và đã kiếm được không ít lợi nhuận nhờ tận dụng tốt cơ hội. Song, cũng có nhiều nhà đầu tư phải khóc ròng trước cơn sốt giá, khi đoán sai đỉnh của cơn sốt, bán ra rồi không mua lại được, hoặc mua lại chính khu đất mình bán trước đó với giá cao hơn.
Những năm gần đây, thị trường thiếu sản phẩm giá vừa túi tiền 1-2 tỷ đồng/căn, với tình hình này thì phân khúc bình dân sẽ tiếp tục khan hiếm. Điều đó có nghĩa, người mua ở thực sẽ ngày càng khó sở hữu nhà đất. Đó là bất ổn cho thị trường vì mục tiêu cuối cùng của bất động sản là giải quyết được bài toán an cư cho người dân.
Không chỉ với các nhà đầu tư, người mua nhà, mà ngay cả với các doanh nghiệp đầu tư bất động sản cũng không lường được thị trường thời gian qua.
Tổng giám đốc một doanh nghiệp địa ốc, chủ đầu tư một dự án tại quận 9 cho biết, doanh nghiệp vừa mở bán xong dự án, thì chỉ một thời gian ngắn sau, giá trên thị trường thứ cấp đã được đẩy tăng lên tới 50%. “Đành rằng, trong đầu tư khó nói trước, nhưng giá như lúc đó đừng mở bán vội, mà để đến bây giờ mới bán thì lời gấp đôi”, vị giám đốc này tiếc rẻ và cho biết, mới đây, ông tìm khắp nơi tại quận 9 để mua đất đầu tư dự án nhưng không được, vì quỹ đất hầu như không còn, hoặc nếu còn thì giá đã cao chót vót, không thể mua nổi.
Đơn cử, tại quận Thủ Đức, khu vực lâu nay có sự bão hòa về giá, nhưng gần đây bất ngờ dậy sóng, giá tăng đột biến. Gần đây, giới địa ốc đang xôn xao về một khu đất có diện tích khoảng 11.500 m2, nằm trên trục đường Võ Văn Ngân, sẽ hình thành 2 block căn hộ cao 30 tầng với gần 2.000 căn, khi bán ra có thể sẽ lập đỉnh mới chưa từng có với các dự án căn hộ.
Thị trường bất động sản TP.HCM gần đây không ngừng chứng kiến những cơn sốt giá ở hầu khắp các phân khúc. Việc giá nhà đất “nhảy múa” không chỉ khiến giấc mơ an cư của nhiều người ngày càng xa vời, mà ngay cả với các doanh nghiệp, giới đầu tư máu mặt cũng phải khóc ròng.
dù thị trường có những khó khăn về mặt doanh thu nhưng với suất sinh lời khoảng 5%, thậm chí có tài sản âm hoặc chỉ lãi 1 – 2% vẫn có nhà đầu tư sẵn sàng tìm kiếm mua, đặc biệt ở khu vực trung tâm như TP HCM, Hà Nội”, TS. Sử Ngọc Khương phân tích.
Tương tự ở nhóm BĐS phát triển mới như dự án điện, khu dân cư,… trước đây tỉ suất sinh lời nội bộ đạt 20 – 25% nhà đầu tư nước ngoài mới tham gia, còn bây giờ chỉ cần 15 – 20% bởi vì thị trường không có nguồn cung mới và nhà đầu tư ngoại nhìn thấy câu chuyện về chi phí tài chính.
Cụ thể, khi nhà đầu tư nước ngoài đầu tư ở nước sở tại, chi phí vốn khoảng 3 – 5%, cộng với chi phí quản trị rủi ro 6 – 7% nhưng lợi nhuận thu về tương đương với lợi nhuận có thể đạt được khi đầu tư tại Việt Nam.
Trong khi đó, nếu đầu tư tại Việt Nam, 3 – 5 năm sau khi chuyển nhượng khoản đầu tư, nhà đầu tư ngoại sẽ thu về lợi nhuận lớn hơn nhiều.
“Tài sản lúc mua có giá 100 triệu USD, ba năm sau nhà đầu tư bán 120 – 150 triệu USD rất bình thường. Những thương vụ này đã từng xảy ra rất nhiều trong quá khứ và bản thân công ty chúng tôi đóng vai trò là đơn vị tư vấn.
Trong năm nay, chúng tôi đã tư vấn thành công thương vụ có giá trị 40 triệu USD tại một dự án resort dang dở. Thế nhưng, với suất sinh lời 5 – 6% trong bối cảnh thị trường Việt Nam hiện nay tôi nghĩ vẫn hơi khó”, Giám đốc cấp cao Savills Việt Nam chia sẻ.
Các yếu tố tác động đến giá thành dự án nhà ở thương mại hiện nay gồm tiền sử dụng đất, chi phí quản lý và năng lực của chủ đầu tư, thậm chí cả những chi phí “không tên” cũng tính vào giá bán mà người mua nhà phải gánh chịu.
Có thể nói, đây là giai đoạn thị trường bất động sản TP.HCM đạt kỷ lục trong lịch sử về sự tăng giá.