Trong báo cáo mới đây, thống kê của SSI cho biết, khách hàng doanh nghiệp lớn và trái phiếu doanh nghiệp là động lực tăng trưởng tín dụng chính của ngành ngân hàng 6 tháng đầu năm, với mức tăng trưởng 6,1% so với đầu năm. Một số cái tên dẫn đầu trong cuộc đua này là VPBank, TPBank, TechcomBank và MBBank.
Theo thống kê của SSI trên dữ liệu 12 ngân hàng niêm yết, lợi nhuận trước thuế trung bình tăng 14,2% so với cùng kỳ năm 2019. Có sự phân hóa giữa top các ngân hàng quốc doanh (bao gồm Vietcombank, BIDV và Vietinbank), có tăng trưởng tín dụng ảm đạm (tăng 2,25% so với đầu năm) và tăng trưởng lợi nhuận trước thuế thấp hơn (tăng 7,3% so với cùng kỳ năm 2019). Trong khi đó, các ngân hàng tư nhân đạt tăng trưởng tín dụng cao hơn, tăng 6,9% so với đầu năm và tăng trưởng lợi nhuận trước thuế cao hơn 19,7% so với cùng kỳ năm 2019.
Tăng trưởng tín dụng nửa đầu năm 2020 yếu, đạt mức trung bình 3,65% so với đầu năm, bằng một nửa mức 7,4% trong nửa đầu năm 2019.
Khách hàng doanh nghiệp lớn và trái phiếu doanh nghiệp là động lực tăng trưởng chính của tăng trưởng tín dụng nửa đầu năm 2020 với mức tăng trưởng cao 6,1% so với đầu năm. Một số ngân hàng dẫn đầu trong cuộc đua gồm: VPBank (tăng 25,5% so với đầu năm), TPBank (tăng 53,4%), TechcomBank (tăng 12%) và MBBank (tăng 20,2%).
4 ngân hàng có mức tăng trưởng tín dụng dựa chủ yếu vào doanh nghiệp lớn và trái phiếu doanh nghiệp gồm TPBank, VPBank, MBBank và TechcomBank
Tăng trưởng huy động bình quân 6 tháng cao hơn nhiều so với tăng trưởng tín dụng, đạt 4,75% so với đầu năm, dẫn đến thanh khoản dồi dào với hệ số LDR (tỷ lệ dư nợ tín dụng/vốn huy động) giảm trong toàn hệ thống. Tỷ lệ LDR trung bình giảm xuống mức thấp nhất trong 8 quý vừa qua.
Lãi suất 6 tháng đầu năm giảm mạnh. Ngân hàng Nhà nước đã hai lần giảm lãi suất vào tháng 3 và tháng 5, giảm mức trần lãi suất huy động từ 0,6% đến 0,75% cho kỳ hạn từ dưới một tháng đến sáu tháng. Đến cuối tháng 7, lãi suất huy động toàn ngành đã giảm từ 0,9% đến 2,1% điểm cơ bản trên tất cả các kỳ hạn.
Bất chấp xu hướng giảm lãi suất huy động và chi phí vốn, NIM (Tỷ lệ thu nhập lãi thuần) trung bình giảm 0,39% so với đầu năm trong quý 2/2020, do triển khai các gói hỗ trợ miễn/giảm lãi suất cho vay và tái cơ cấu nợ (2,1% tổng dư nợ cho vay). Thu nhập lãi ròng (NII) tăng trưởng hạn chế, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2019 (năm 2019 tăng 18%).
Triển vọng cuối năm 2020
Theo nhận định của SSI, triển vọng từ nay tới cuối năm của ngành ngân hàng không mấy sáng sủa.
Cụ thể, tăng trưởng tín dụng năm 2020 sẽ nằm trong khoảng 7,5% – 8,5%, thấp hơn mục tiêu tăng trưởng tín dụng ban đầu của NHNN là 11% -14%. Nhu cầu tín dụng có thể tiếp tục suy yếu do làn sóng COVID-19 thứ hai. Cho vay khách hàng doanh nghiệp lớn và trái phiếu doanh nghiệp tiếp tục là động lực chính cho tăng trưởng tín dụng, trong khi tăng trưởng tín dụng mảng bán lẻ sẽ không mạnh mẽ như trước. Tăng trưởng huy động ước tính tiếp tục duy trì mạnh mẽ, tạo thanh khoản dồi dào cho ngành ngân hàng trong nửa cuối năm 2020.
Ước tính lãi suất huy động tiếp tục giảm khoảng 0,5% đối với kỳ hạn trên 6 tháng và 0,7% đối với kỳ hạn dưới 6 tháng do nhu cầu tín dụng yếu, cũng như quyết định gần đây của Ngân hàng Nhà nước về việc nới rộng thời gian áp dụng mức trần 40% về tỷ lệ vốn ngắn hạn dùng cho vay trung và dài hạn thêm một năm nữa đến hết ngày 30/9/2021. Việc lãi suất giảm sẽ tiếp tục ảnh hưởng tới NIM lợi nhuận của hệ thống ngân hàng.
Nợ xấu và nợ vay tái cơ cấu sẽ tăng nhanh vào cuối năm. Dựa trên ước tính của Ngân hàng Nhà nước vào Quý 1/2020, khoảng 2 triệu tỷ đồng dư nợ cho vay, chiếm 23% tổng tín dụng, chịu ảnh hưởng bất lợi bởi đại dịch.
Khi đại dịch kéo dài, số lượng khách hàng gặp khó khăn về dòng tiền sẽ tiếp tục tăng lên. Các ngân hàng sẽ phải đưa các khoản vay này vào danh sách tái cơ cấu, hoặc phân loại lại thành nợ xấu. Do đó, thu nhập lãi mất đi liên quan đến nợ tái cơ cấu và nợ xấu có thể ở mức đáng kể hơn. Một phần thu nhập lãi được ghi nhận trong 6 tháng đầu năm 2020 có thể sẽ được thoái thu do khoản nợ này bị hạ xếp loại.
Những tác động tiêu cực của việc giảm lãi suất và miễn lãi sẽ kéo dài trong suốt nửa cuối năm 2020, lâu hơn giai đoạn nửa đầu năm.
SSI ước tính các ngân hàng sẽ đẩy nhanh việc trích lập dự phòng cho nợ xấu mới và nợ tái cơ cấu, mặc dù thời hạn của Thông tư 01 có thể được kéo dài để trì hoãn thời gian ghi nhận nợ xấu.
Lợi nhuận trước thuế trong nửa cuối năm của hệ thống ngân hàng ước tính giảm 22,1% so với cùng kỳ năm 2019, do thu nhập hoạt động giảm (giảm 4% so với cùng kỳ) và chi phí dự phòng tăng (tăng 47,8% so với cùng kỳ 2019). Tổng lợi nhuận trước thuế giảm là do lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng quốc doanh ước tính giảm 35,7% so với cùng kỳ 2019 (chủ yếu do chi phí dự phòng tăng 58,8% trong nửa cuối năm 2020).